Phật Giáo-Quyền năng và Giải Thoát

Thảo luận trong 'Tâm sự về các vấn đề khác' bởi EnCon, 9/6/2009.

  1. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Bản thân em cũng là con người như bao người khác,cũng ngụp lăn trong những mê muội của cuộc đời,cũng đã tạo nghiệp như bất cứ con người nào từng sống trên cõi đời này.Một phần cũng là do thiếu hiểu biết,ko thấu hiểu về Đạo Phật,về lẽ nhân quả .EM đã được giác ngộ phần nào,nên đã phần nào thấu hiểu được nguồn gốc những khổ đau của hết thảy chúng sinh trên thế gian! Có người khôn kẻ khó,ko ai giống ai,có chiến tranh,có bệnh tật ,khổ đau đều do những ham muốn,lòng thù hận của mỗi chúng sinh gây ra .Chúng ta cần thấu hiểu rằng,cảnh khổ trong kiếp sống này của mình là mình phải chịu do những việc làm bất thiện trong những kiếp sống trước gây ra! Từ đó mà tĩnh tâm sám hối,hành thiện để giúp đời nhằm chuộc lại những tội lỗi chúng ta đã gây ra!Em được giác ngộ là nhờ tiếp cận giáo lý nhà Phật qua Internet,nên em cũng xin mạn phép dùng công cụ này để đưa tới mọi người chút ít giáo lý của Đức Phật,mong mọi người hãy chú tâm nghiên cứu,nếu giác ngộ được thì xin phổ biến cho nhiều người nữa biết .Bản thân giáo lý của Đức Phật rất gần gũi và dễ hiểu .Mong mọi người tha lỗi nếu có chút thiếu sót do sự u tối của em!
    Toàn bộ thông tin em đưa trong topic này đều lấy từ trang web" Giacngo.vn" của Hội Phật Giáo TP HCM và một số trang khác đều hợp pháp và tất cả việc làm này của em đều chỉ nhằm mục đích góp phần nhỏ bé nhằm thức tỉnh con người,giúp họ hiểu và có hành động đúng đắn,xóa bớt đi những việc làm sai lầm,những tội ác trên thế gian chứ ko vì một mục đích nào khác !Mong toàn thể mọi người góp ý và đóng góp thêm bài vở cho topic này!
    Đây là bài viết đầu tiên em đọc và giúp em hiểu được nguồn gốc của những chiến tranh,cảnh máu đổ của con người từ đâu mà có:
    ĂN CHAY SÁT SINH VÀ QUẢ BÁO
    Việt dịch Thích Tâm Anh
    Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2007



    Lợi ích ăn chay
    Nhân loại thời nay hầu hết đều thích ăn thịt, dẫn đến xuất hiện tràn lan các bệnh tật như: cao huyết áp, tiểu đường sỏi thận, bệnh tim, xơ cứng mạch máu. Ngạn ngữ có câu:

    “Xưa nay trong một bát canh
    Oán sâu như bể hận thành non cao
    Muốn hay nguồn gốc binh đao
    Lắng nghe lò mổ tiếng gào đêm thanh”.

    Từ ngàn xưa đến nay, một bát canh chúng ta ăn, nhìn qua tuy bình thường chỉ là một bát canh, nhưng sự oán hận trong đó thật sâu hơn biển. Muốn biết vì sao trên thế giới chiến tranh, tai kiếp, binh kiếp, ôn dịch xảy ra mãi không thôi? Tất cả đều do ăn thịt mà ra. Nếu bạn muốn hiểu sự thật, đang đêm bạn hãy thử vào lò mổ xem sao? Giết trâu trâu khóc, giết heo heo khóc, giết dê dê khóc. Những tiếng khóc thê thảm, những tiếng gào thảm thiết, những oán hận trùng trùng, những oan độc, những cừu hận ấy tỏa khắp hư không mới tạo nên bao tai kiếp cho thế gian. Giả sử ai ai cũng ăn chay, thì những oan nghiệt ấy tức khắc tiêu dứt, có thể biến can qua thành hòa bình, biến bạo lực thành an lành, được như thế mới cứu vãn được tai kiếp cho tương lai.

    1. ăn chay được mạnh khoẻ, sống lâu

    Thứ nhất: thức ăn chay không độc, thịt có độc

    Thức ăn chay phần nhiều đều là rau quả, sinh trưởng lớn lên từ đất, hoặc rong biển… đã nhiều dinh dưỡng lại không có độc tố. Những thực vật này giúp máu giữ được chất kiềm – đây muốn chỉ máu ấy trong sạch. Y học gọi là kiềm tính thực vật. Thực phẩm có thịt ăn vào có thể khiến cho máu mang tính chua – đây muốn chỉ máu ấy dơ, do đó thịt được gọi là thực phẩm mang tính chua. Người ăn chay máu sạch, nên tuần hoàn nhanh, khiến cơ thể nhẹ nhõm thoải mái, hoạt bát, tinh lực dồi dào, chịu đựng giỏi, suy nghĩ nhanh lẹ và sống lâu. Như Hòa thượng Triệu Châu, một cao tăng Phật giáo đời Đường sống đến 150 tuổi. Hòa thượng Hư Vân thời cận đại sống được 120 tuổi. Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Đài Loan, nhờ nhiều năm trường trai, 95 tuổi mà vẫn sáng suốt. Những điều này đều là hiện thực chứng minh ăn chay mạnh khỏe, sống lâu. Lại như quán quân bơi lội Mậu-lâm-la-tư của thế vận hội Olimpic, lần đầu tiên, tốc độ của anh ta thật kinh người. Là vận động viên nổi tiếng nhất, anh ta là một người ăn chay. Theo báo cáo của Kiện Đức, một nhà hóa học trứ danh Pháp quốc, ông ta phát hiện thực phẩm thịt là một loại thực phẩm trúng độc mang tính chậm. Bởi vì xuất xứ của thịt là từ heo, dê, gà, vịt… mà động vật lúc vội vàng, giận dữ hoặc sợ hãi thì trong cơ thể sản sinh một vật tiết ra độc tố, độc tố ấy nhanh chóng truyền khắp các mạch máu vi tế và thịt trong toàn thân. Vật tiết độc chất này thông thường đều đầy trong cơ thể, tác dụng “cái mới thay đổi cái cũ” bài xuất ra ngoài, hoặc ra bằng đường đại tiểu tiện. Nếu con vật bị giết trong lúc đang giận dữ hoặc sợ hãi, bộ máy cơ thể bị đình chỉ hoạt động, vật tiết xuất độc tố này không được bài xuất ra, vẫn tồn đọng trong máu thịt. Nếu ăn vào loại thịt này, tất bị trúng độc tố ấy. Cho nên, ăn thịt bằng với trúng độc mang tính chậm. Đã từng có người thí nghiệm qua. Động vật trong lúc giận dữ hoặc sợ hãi, chất tiết độc tố mà cơ thể sản sinh ra, nếu hút ra bằng ống thủy tinh, chỉ cần độc tố bằng một cây nhang đã có thể giết chết một mạng người. May mà độc tố này khi gặp rau quả, bị hóa giải bớt một phần nào. Cho nên lúc nấu nướng, nên bỏ vào một ít gừng tươi, ớt hoặc rau xanh, đậu hủ, sẽ hóa giải bớt độc tố của thịt. Nếu nấu chỉ toàn thịt, không bỏ gừng, tỏi, rau... thì độc tố của thịt không được hóa giải, ăn vào sẽ có hại, lâu dài tất sẽ trúng độc mà chết.

    Năm 1954, viện liệu dưỡng bệnh phổi Gia Nghĩa, Đài Loan có một bệnh nhân tên Quảng. Lúc rút quân khỏi Đại Lục, anh ta theo quân đội đến Đài Loan. Do suy dinh dưỡng, anh ta mắc bệnh phổi. Anh trai anh ta làm ăn buôn bán ở Hồng Kông. Mới đầu đến Đài Loan, không liên hệ được với anh mình. Sau liên lạc được, viết thư báo mắc trọng bệnh. Anh trai gởi đến cho một món tiền lớn. Có tiền, anh liền nghĩ đến bồi bổ. Bồi bổ bằng gì? Ăn gà! Thịt gà là bổ nhất! Ban đầu, hai ngày ăn một con. Ăn liền mấy ngày không thấy khởi sắc. Bồi bổ nữa. Mỗi ngày ăn một con. Ăn liền mấy ngày, sức khỏe lại càng suy nhược. Lại bồi bổ nữa. Một ngày ăn ba con. Phương pháp ẩm thực của anh ta thật đặc thù. Sợ dinh dưỡng của gà theo máu ra hết, vì thế anh nhét gà vào ống tre cho ngột chết, rồi bỏ vào nồi áp suất hầm, sau đó uống hết nước cốt. Uống một ngày ba lần như thế. Uống chưa được mấy ngày thì ôi thôi! Nguyên nhân đưa đến cái chết này của anh ta, lúc đó tôi chẳng hiểu gì cả. Về sau học Phật, nghiên cứu phương pháp ăn chay, mới hiểu được ông Quảng do ăn thịt trúng độc mang tính chậm mà chết. Không những súc sinh mà con người cũng thế. Con người lúc giận dữ, sợ hãi, sắc mặt bỗng chốc đỏ mặt tía tai hoặc nhợt nhạt, điều này đều do tinh thần bị kích động mà sản sinh độc tố, hiện tượng biến hóa trong máu. Độc tố này đối với phụ nữ còn phát sinh cả trong sữa nữa, nếu cho con bú sẽ nguy hiểm tính mạng. Trong Ấn Quang Đại Sư Văn Sao có kể câu chuyện thế này: có một phụ nữ người Âu, sau khi chăm chú nghe Ấn Quang đại sư khai thị lý giới sát ăn chay, bèn khóc rống lên. Bà ta đau xót cho hai đứa con trai của mình, chết do độc của sữa. Vốn là hai vợ chồng bà thường hay xảy ra bất hòa, cãi vã. Mỗi khi hai vợ chồng gầm thét như sấm, đứa bé sợ khóc thét lên. Là người làm mẹ, để con thôi khóc, lập tức vạch áo đút ngay núm vú vào miệng đứa trẻ, tuy đứa trẻ đã thôi khóc, nhưng từ đó cơ thể suy nhược dần, không bao lâu thì chết. Từ sự thật của hai câu chuyện này, có thể thấy: ăn chay không độc, thịt có độc. Tất nhiên, cần phải tức tốc giới sát ăn chay.

    Thứ hai: Nhân loại nên ăn chay, chớ nên ăn thịt

    Theo tiến sĩ Hàn Đinh Đốn của trường đại học Ca-luân-tỷ-á Mỹ quốc, đã từng giải phẫu phân tích đường ruột, chứng minh con người thích hợp ăn chay mà không thích hợp ăn thịt. Ông ta giải thích ruột non của động vật ăn thịt thì ngắn, ruột già thẳng và trơn nhẵn; ruột non của động vật ăn chay thì dài, ruột già cũng dài; ruột của động vật ăn thịt lẫn ăn chay dài hơn động vật ăn thịt, ngắn hơn động vật ăn chay. Ruột già của con người dài khoảng 5 – 6 mét và quằn tới quằn lui, vách ruột không láng đồng thời chồng lên một đống. Đường ruột như thế chỉ thích hợp với ăn chay, không thích hợp với ăn thịt. Bởi vì thịt ít chất xơ, sau khi tiêu hóa để lại cặn bã. Ruột của con người tương đối dài, thức ăn ở trong ruột quá lâu sẽ sinh ra độc tố, tăng thêm gánh nặng cho gan. Gan quá sức chịu đựng sẽ trở nên xơ cứng, thậm chí ung thư. Lại nữa, trong thịt có rất nhiều a xít uric, Urê, ăn vào tăng thêm gánh nặng cho tạng thận, dẫn đến bệnh thận. Vả lại, thịt ở trong ruột già, ruột non phải qua sự hấp thu quá độ không cần thiết. Và thịt vốn lại thiếu chất xơ, dễ tạo nên táo bón, dẫn đến bệnh trĩ và ung thư trực tràng. Sự phân tích đường ruột con người trên đây, đủ để chứng minh con người ăn thịt là “tự rước họa vào thân”.

    Thứ ba: Thức ăn thịt dễ dẫn đến bệnh tật

    Sự nguy hại lớn nhất đến sức khỏe của người già, trung niên là colesterin, mà hàm lượng colesterin tương đối có nhiều trong não, thần kinh, máu, nước mật, lòng vàng trứng và mỡ… của động vật. Colesterin là chủ thể cấu thành hocmon của tuyến thượng thận và vitamin D. Tố chất dinh dưỡng này, thanh niên, trung niên hấp thu một lượng vừa phải rất là hữu ích. Nếu trong máu của một người chứa colesterin quá nhiều, sẽ dẫn đến xơ cứng động mạch, bệnh tim, bệnh cao huyết áp… Tuổi trung niên trở lên thì cơ thể, sinh lý có chiều hướng suy dần. Tất nhiên, cần phải tránh ăn nhiều thực phẩm thịt hàm chứa phong phú chất colesterin để giữ sức khỏe cơ thể.

    Hiện tại, nguyên nhân tử vong đứng đầu ở Đài Loan là bệnh tim, huyết áp. Thống kê từ bệnh chứng, chứng tỏ người Đài Loan ăn thịt quá nhiều. Trong các cuộc báo cáo từ nhiều nghiên cứu khác nhau, đều đưa ra thịt có thể dẫn đến ung thư. Bởi vì thịt lúc chiên nướng, sẽ sản sinh ra một chất hóa học – chất dẫn đến bệnh ung thư nghiêm trọng này. Giả sử ăn thịt chiên nướng, một miếng bít-tết có thể tương đương với chất hóa học – khói của 600 cây nhang. Cho nên, ăn bít tết và thịt quay còn đáng sợ hơn hút cả một khối lượng lớn thuốc thơm. Kế đó, nếu heo bò mắc bệnh ung thư hoặc các bệnh tương tự, ăn thịt của những con vật này, rất có khả năng sẽ bị truyền nhiễm. Lại nữa, có một số nhà chăn nuôi, để phòng súc vật nuôi như heo, bò, gà, vịt không bị truyền nhiễm bệnh dịch, đã bỏ thuốc kháng sinh trong thức ăn gia súc. Điều này khiến cho người ăn thịt cũng bị hấp thu rất nhiều chất kháng sinh. Về sau những người này mắc bệnh, thì kháng sinh và thuốc đặc hiệu của y bác sĩ dùng đều trở thành thuốc mang tính chống kháng vô hiệu hóa, làm cho không thuốc nào chữa được, bó tay chịu chết. Sinh mạng của những người này do thường ngày ăn thịt làm chủ.

    Nguyên nhân tử vong lớn thứ hai ở Đài Loan chính là ung thư. Cồn có thể gây nên bệnh ung thư. Người uống rượu thường bị ác tính niêm mạc khí quản và phế nang tế bào, ung thư thực quản và khối u ác tính dạ dày gián tiếp gây nên ung thư gan, xơ gan cổ trướng. Giữa rượu và ung thư kết tràng, ung thư trực tràng có sự liên quan mật thiết. Cho nên, háo ăn thịt cá, lại thêm tham rượu, bằng với lửa đổ thêm dầu, nguy hiểm vô cùng. Có rất nhiều thực vật phòng chống khối u. Hễ những thực vật giàu vitamin A, C đều có thể dự phòng ung thư. Ví như xúp lơ, dưa bở, khoai lang, cà chua, hạnh tử, trái đào, bí rợ, rau chân vịt, bí đao, bắp cải, su hào, rau cải hoa, bưởi, ớt tươi, chanh, lê, quýt, đậu hà lan, dứa, dâu tây, cam đường, cà rốt, sữa bột… giảm mập. Người ăn chay không cần kiêng kỵ thứ nào. Người Mỹ đã từng điều tra thống kê, vi trùng bệnh trong cơ thể con người, hết 8 phần 10 là do truyền nhiễm từ thịt bò, và người bị bệnh phổi cũng có người do ăn thịt bò. Lại trong dịch Hổ Liệt La, có một loại tên gọi là Đồn Hổ Liệt La, đó chính là bệnh truyền nhiễm từ heo. Đan Mạch sau thế chiến thứ hai, để tái tạo lại đất nước, chính phủ nghiêm cấm nhân dân giết động vật làm thực phẩm. Qua năm thứ hai kinh tế phục hồi mới bỏ lệnh cấm. Ngờ đâu sau khi giải cấm, người dân trong nước mắc bệnh ngược lại cao hơn nhiều so với khi cấm lệnh sát sinh. Có thể thấy, ăn chay có ích, ăn thịt có hại. Lại nữa, trước thế chiến thứ hai, nước Bungari ở Châu Âu được gọi là “đất nước của trường thọ”. Trong 6.000.000 nhân khẩu của toàn đất nước, có đến 160 người thọ trên 100 tuổi. Nguyên nhân trường thọ ấy, qua kết quả của các nhà y học, 95% là ăn chay trường. Đây chính là ăn chay có thể khỏe mạnh, sống lâu.

    Lại một chứng minh nữa: nhà dinh dưỡng học Kha-lâm-tư, Mỹ quốc nói: “Nhân loại nếu có thể bỏ ăn thịt, thì sẽ thu được lợi ích vô cùng”. Ăn chay có thể giữ lâu tuổi trẻ, tinh lực dồi dào, đầu óc mẫn tiệp, da thịt mềm mại, đây là hiện tượng của tuổi trẻ. Ngược lại, thân thể mệt nhọc, thần trí hôn ám, da thịt xù xì, lộ ra dáng vẻ lão hóa. Nay lấy ba cái này làm chuẩn, so sánh giữa ăn chay và ăn mặn, nhà dinh dưỡng học Chu Tu Tuệ nói: “Ăn nhiều thực phẩm có thịt, trong y học gọi là thực vật mang tính chua, có thể làm cho máu mang tính chua, máu dơ. Lúc muốn trung hòa tính chua này, chất canxi trong máu phải tiêu hao lượng lớn. Lượng canxi mất, tế bào sẽ bị lão hóa, cơ thể mỏi mệt không sức chịu đựng, dễ đưa đến thần trí hôn ám và suy yếu. Còn ăn nhiều rau xanh, trái cây, những thực vật mang tính kiềm này, có thể làm cho máu giữ được chất kiềm, máu trong sạch, khiến cho cơ thể nhẹ nhàng, thoải mái, tinh lực dồi dào, chịu đựng giỏi, đầu óc nhanh nhạy đồng thời có thể sống lâu”.

    Trên đây, đã đối chiếu sức khỏe và tinh thần của người ăn chay và người ăn mặn, rõ ràng đã thấy: một giữ được vẻ thanh xuân, một suy yếu lão hóa. Sự láng mịn và xù xì của da, chỉ nhìn qua ta có cảm giác ngay là già hay trẻ. Cho nên, da thịt mịn màng là điều kiện chính của sự trẻ mãi. Ăn chay làm sao giữ được nước da mịn màng? Điều này cần phải nói từ thực phẩm dầu mỡ nào mà người ăn chay đã ăn. Giá trị dinh dưỡng của mỡ là: thứ nhất, cung cấp nhiệt năng. Thứ hai, duy trì nhiệt độ cơ thể, bảo vệ nội tạng và làm tươi nhuận da. Thứ ba, giúp đỡ hấp thu vitamin. Chất mỡ quá nhiều làm cho người ta mập, dễ mắc bệnh cao huyết áp, mạch máu não cho đến các bệnh tim, gan, phổi, thận… Nếu mỡ quá ít khiến cho người ta gầy gò, dễ mắc các chứng suy nhược cho đến các bệnh về da. Có hai nguồn mỡ: một là mỡ từ động vật, như mỡ của heo, dê và thịt mỡ, gọi là mỡ động vật. Hai là mỡ từ nhân thực vật, như dầu phụng, dầu đậu nành, gọi là dầu thực vật. Sự hơn thiệt của hai loại dầu mỡ này khác nhau rất lớn. Mỡ động vật là mỡ bão hòa, nhiều colesterin, dễ dẫn đến xơ cứng động mạch, cao huyết áp, bệnh tim, cũng có lợi cho việc sinh sản ung thư tế bào. Dầu thực vật không phải là dầu bão hòa, có thể thúc đẩy tăng gia bài tiết tính chua của nước mật, làm cho colesterin xuống thấp, tránh được bệnh tim và các chứng huyết quản khác. Từ đó có thể thấy, người ăn chay sử dụng dầu thực vật, quả thật là một yếu tố lớn để khỏe mạnh tươi da. Hàm lượng dầu trong thực vật, nhiều nhất là ở hồ đào, chứa 66.90%. Thứ hai là đậu phụng, chứa 48.70%. Thứ ba là mè trắng, chứa 48.23%. Thứ tư là đậu nành, chứa 20.20%. Những dầu này đều không phải là dầu bão hòa, ăn vào có ích không hại. Hàm lượng mỡ trong động vật, nhiều nhất là ở thịt heo, chứa 57.80%. Thứ hai là thịt dê, chứa 25.00%. Thịt bò chứa 13.50%. Nhưng những loại mỡ này đều thuộc mỡ bão hòa, chứa rất nhiều colesterin, dễ dẫn đến bệnh tim, bệnh huyết quản. Nghe nói, ngày xưa nữ minh tinh điện ảnh Hồ Điệp, nhờ ăn chay trường, tuy đã ở tuổi “bảy mươi xưa nay hiếm”, nhưng vẫn giữ được dáng vẻ xinh đẹp thuở thiếu thời. Đây là một chứng cứ ăn chay có thể không già.

    2. ăn chay có thể phát triển trí tuệ

    Đại Đái Lễ Ký nói: “Ăn thịt dũng cảm nhưng hung hãn, ăn chay thông minh mà hiền hậu”. Đây là thuyết “ăn chay có thể phát triển trí tuệ”, thấy ở những sách tịch cổ đại Trung Quốc. Điều này cực kỳ quan trọng đối với thành phần tri thức trẻ. Rất tiếc những người đề xướng ăn chay sau này, phần lớn chỉ lập luận trên nhân quả nghiệp báo, giới sát hộ sinh, rất ít người lao vào nghiên cứu nguyên lý “ăn chay có trí”, làm lỡ cơ duyên ăn chay cho biết bao người.

    Gần đây, tiến sĩ Bình Sơn Hùng của Viện Vệ Sinh Lập Công Chúng, Nhật Bản, với con mắt của nhà nghiên cứu học thuật, đã thấy được người ăn chay tham dục ít, người ăn mặn tham dục nhiều; người ăn chay tinh thần sáng suốt, người ăn mặn thần chí lơ mơ. Người ăn chay đầu óc nhạy bén, người ăn mặn tinh thần chậm chạp. Phát giác này của ông ta hợp với thuyết “ăn chay đa trí” của người xưa. Hiện tại, có cuốn sách nói về ăn chay, có nói y học gia hiện đại, không ngừng nghiên cứu khảo chứng, đã phát hiện được ăn chay có hai lợi ích lớn. Thứ nhất là ăn chay có thể phát triển trí tuệ và sức phán đoán. Ông ta nói: “Theo sự minh chứng trên, vấn đề sinh lý, sức hoạt động não bộ của con người, là do trong tế bào não có hai lực lượng chính phản tác dụng lẫn nhau, xung kích không ngừng trong bộ óc của con người, hình thành nên cái mà người ta gọi là “suy nghĩ”. Xung đột đến cuối cùng, có một phía giành được thắng lợi, đây chính là cái mà chúng ta gọi là “quyết định”. Nhưng muốn làm cho não bộ phát huy hết được hai tác dụng chính phản, thì cần phải cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cần thiết cho tế bào não. Thành phần dinh dưỡng này chủ yếu là phu toan, kế đó là vitamin B và dưỡng khí. Và trong thực vật thì ngũ cốc và các loại đậu chứa phu toan và các loại vitamin B phong phú nhất. Thịt đứng thứ hai và phân lượng rất ít, cho nên chỉ có người ăn chay mới có được năng lực não kiện toàn, mới có thể nâng cao trí huệ và sức phán đoán. Nhớ lại 40 năm trước, lúc chúng tôi còn ngồi ghế nhà trường, y học gia thời đó cho rằng, muốn phát triển trí huệ, cần phải ăn nhiều thực vật có chất phốt pho và sắt”. Căn cứ khoa học của ông ta là tế bào da của não thiếu chất phốt pho, nên ảnh hưởng đến năng lực của não. Thần kinh thiếu phốt pho sẽ truyền đạt chậm chạp. Thậm chí chất sắt, cũng là nhân tố chủ yếu nâng cao trí tuệ. Cơ thể con người nếu như thiếu sắt sẽ bị thiếu máu, phát sinh các chứng bệnh chóng mặt, hồi hộp, hay quên, thân thể mỏi mệt. Những người như vậy thành tích học tập chắc chắn sẽ yếu. Thực phẩm có quan hệ mật thiết với việc học như vậy, nên giới học sinh trẻ không thể không biết lợi ích của ăn chay và vấn đề dinh dưỡng thường thức. Mỗi người đều mong muốn mình là người có trí tuệ bậc nhất trên đời, đặc biệt đang là thời học sinh, ai cũng muốn đọc qua một lần là nhớ, vì muốn làm bậc trí siêu cấp, thế là phải bổ não, bổ thận. Người Trung Quốc cổ đại luôn tương truyền một quan niệm sai lầm là: cơ thể suy nhược thì dùng thịt để bồi bổ. Lại cho rằng ăn gan bổ gan, ăn não tất có thể bổ não. Trước đây khoa học chưa phát triển, mọi người không ai biết trong não của heo, dê, trâu, bò có colesterin. Với quan niệm sai lầm rằng ăn não bổ não, làm cho rất nhiều con em nhà quan đầu óc lú lẫn. Trái lại, những con em nhà nghèo khó, cả đời chưa từng ăn bữa cá lại được thông minh, trí tuệ. Cho nên, trong xã hội thường nghe câu ngạn ngữ khuyên con em nhà nghèo khó thế này: “Làm tướng không có dòng, nam nhi nên gắng sức”, hoặc là “Sống được đời cơ hàn, mới là trang nam tử”. Thậm chí có lời khen: “Biết bao tay trắng rốt nên danh”. Nhưng lại có mấy ai biết được đạo lý “ăn chay đa trí” đâu!

    Giới Phật giáo nước ta, hàng tăng ni xuất gia phụng hành Phật pháp Đại thừa nhất loạt đều ăn chay. Từ xưa đến nay, nước ta cao tăng Phật giáo ồ ạt xuất hiện. Có người trí tuệ siêu quần, có người biện tài vô ngại. Nổi danh thiên hạ như Thích Đạo An. Tài cao ngũ ấn Đường Huyền Trang. Bậc trí như ngài Đạo Sinh. 90 ngày thuyết kinh Pháp Hoa đến đá cũng gật đầu. Thanh Lương nhờ đạo đức văn chương làm thầy bảy đời vua. Liên Trì đại sư nhờ ngôn hành hợp nhất làm tổ thứ tám. Những cao tăng đại đức như vậy tính không thể hết. Tuy nói họ nhờ tu trì Phật pháp mà được phước trí tăng trưởng, nhưng vâng lời Phật dạy trường trai, đối với vấn đề nâng cao trí tuệ cũng là một nhân duyên lớn. Hiện tại, y cứ theo sách sinh dưỡng của trường đại học y, trích lục thực phẩm và cách dinh dưỡng có liên quan đến nâng cao trí tuệ phổ thông nhất, để cung cấp cho những ai có chí ăn chay tham khảo. Đọc kỹ sách này, nội dung đối chiếu thức ăn mặn và thức ăn chay, thấy được khoáng chất có trong thực phẩm chay, cho đến vitamin B cao hơn nhiều so với thực phẩm thịt. Vả lại, chủng loại thực phẩm chay nhiều, nguồn cung cấp phong phú lại không có độc tố, có thể an tâm sử dụng, đủ để chứng minh ăn chay hơn ăn mặn.

    Nãy giờ là bàn lợi ích ăn chay bằng thế gian pháp. Lợi ích của nó còn có thể dùng ngôn từ, số lượng để biểu đạt. Dưới đây luận ăn chay bằng Phật pháp, lợi ích của nó càng không thể nghĩ lường.

    Sát kiếp còn gọi là đao binh kiếp, cũng chính là chiến tranh xảy ra khắp nơi. Binh sĩ thời xưa tác chiến, dùng đao, kiếm làm vũ khí, cho nên chiến tranh xảy ra khắp nơi gọi là đao binh kiếp. Nguyên nhân xảy ra đao binh kiếp này, phàm phu không rõ nhân quả, ngộ nhận rằng chính kẻ xâm lược chủ nghĩa đế quốc gây ra, hoặc những kẻ chính trị dã tâm trong nước gây nên. Nói theo nhân quả nghiệp báo trong Phật pháp, đó không phải là nguyên nhân chính, đó chỉ là một trợ duyên mà thôi. Nguyên nhân chính là do sát sinh ăn thịt mà ra. Bây giờ, đơn cử bài kệ của thiền sư Từ Thọ ra để thuyết minh:

    “Thế gian đa sát chúng sinh,
    Trả ngay nghiệp báo sinh tình can qua;
    Nợ mạng tức quyết báo ra,
    Thiếu tiền không trả nhà liền ra tro;
    Đời nay con vợ thăm dò,
    Quyết rằng kiếp trước phá gia rẽ bầy;
    Nhân quả thật đúng khôn tầy,
    Rửa tai nghe Phật thuyết rồi tin vâng”.

    Câu thứ nhất của bài kệ “Thế gian đa sát chúng sinh” là nhân, “trả ngay nghiệp báo sinh tình can qua” chính là quả. Đời trước anh giết nó là nhân, đời nay nó giết lại anh là quả; đời trước anh cướp của nó là nhân, đời nay nó đốt nhà anh là quả. Vì sao nó làm cho vợ con anh ly tán? Vì đời trước anh đã từng đào hang, phá ổ của chúng, cũng chính là bắt chim lấy trứng, cho nên đời nay nó ly tán vợ con anh. Nhân quả báo ứng là “ăn tám lạng trả nửa cân”, một chút cũng không sai lệch. Cho nên, muốn không bị quả báo, phải lập tức quy y cửa Phật, tin lý nhân quả không tạo ác nghiệp.

    Tôi đưa ra thêm một sự thật lịch sử để chứng minh: ngày xưa lúc Phật còn tại thế, vua Lưu Ly mang đại binh đi đánh nước Ca-tỳ-la-vệ. Phật từng đích thân đi gặp vua Lưu-ly thỉnh cầu giải quyết hòa bình, nhưng cuộc hòa đàm không thành, Phật bèn bảo dòng họ Thích Ca phòng thủ tự vệ không nên chống trả. Quân đội vua Lưu-ly chiếm thành, chém giết loạn xạ. Lúc đó tôn giả Mục Liên thần thông quảng đại, dùng thần thông hút 500 người dòng Thích Ca vào trong bát, đưa lên cung trời tỵ nạn. Đợi đến khi hết chiến tranh, mở bát ra, 500 người trong bát trở thành bát máu. Tôn giả Mục Liên thỉnh thị đức Phật nguyên nhân. Phật kể vào kiếp quá khứ xa xưa, có một thôn trang, trong thôn có một hồ cá lớn. Vào một ngày lễ, mọi người trong thôn kéo cá ăn thịt. Trong đó có một con cá lớn cũng bị bắt. Lúc đó có một đứa trẻ ăn chay, nhưng vì nghịch ngợm đã dùng gậy gõ đầu con cá lớn ba cái. Con cá lớn đời trước chính là vua Lưu-ly bây giờ, các con cá nhỏ chính là đội quân vua Lưu-ly hiện tại, những người trong thôn hiện nay là người dòng Thích ca bị giết, đứa trẻ không ăn cá nhưng gõ đầu cá ba cái chính là ta. Ta vì không ăn cá nên không bị giết, nhưng gõ đầu cá ba cái nên bây giờ ta bị đau đầu ba ngày. Câu chuyện trên gọi là nhân quả báo ứng, tự làm phải tự chịu, người khác không thay thế được.

    Năm 1927, hội ăn chay Âu Mỹ đại hội vạn quốc ăn chay lần thứ nhất tại Luân Đôn. Những học giả nổi tiếng tham gia phát tâm ăn chay có đến mấy ngàn người. Về sau tại thành phố Tân-la-ngoã, Tiệp Khắc đại hội quốc tế ăn chay lần thứ 7. Đại hội lần này có 23 nước như Trung Quốc, Đức, Pháp, Mỹ, Áo... tham dự. Đại diện Trung Quốc đến đại hội là cư sĩ nổi tiếng Lữ Bích Thành. Trong đại hội này, tiến sĩ Hoa-nhĩ-tự, Anh quốc nói: “Muốn tránh nhân loại đổ máu, cần phải bắt đầu từ trên bàn ăn”. Ý của câu này vô cùng sâu sắc, đề xướng mọi người ăn chay có thể tiêu trừ sát kiếp, đáng cho các nhà chính trị có lòng cứu đời thâm thiết thể hội.

    3.Người ăn chay không bị quả báo

    Sát sinh và ăn thịt, hai nghiệp này đều là ác nghiệp. Có người chỉ tạo một tội, như người ăn thịt nhưng không sát sinh; người sát sinh không thích ăn thịt. Có người lại kiêm cả hai, như kẻ đồ tể thích ăn thịt. Có một số người lém lĩnh, luôn muốn đẩy trách nhiệm cho kẻ khác, làm nghề đồ tể mà đẩy tội sát cho người ăn thịt. Mỗi lần giết heo, miệng luôn nói: “Heo này! Heo này! Mày chớ hận tao, mày là thức ăn của nhân loại, mọi người không ăn tao không giết, mày hãy đòi tội người ăn thịt ấy!”. Còn người ăn thịt lại đổ tội cho người giết thì nói gì? “Họ không bán tao không mua, họ không giết tao không ăn, họ không phải vì tao mà giết mày”. Người ăn người giết đẩy tội cho nhau. Công bằng mà nói tất cả đều là tự biện hộ cho mình.

    Kinh “Lăng Nghiêm” nói rất hay:

    “Vì lợi giết chúng sinh,
    Vì tài giăng bủa lưới;
    Cả hai đều ác nghiệp,
    Chết đọa ngục kêu la;
    Nếu không, bảo, nghĩ, cầu,
    Thì không tam tịnh nhục;
    Nó hữu nhân mà có,
    Vì thế không nên ăn”.

    Tội báo của sát sinh, theo kinh Hoa Nghiêm nói, chắc chắn đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chịu khổ ba đường. Khi chuyển sinh làm người lại phải bị hai ác báo: một đoản mạng, hai nhiều bệnh. Tam đồ là chánh báo, làm người là dư báo.

    “Luân hồi sáu đường khổ
    Cháu trai đám cưới bà
    Trâu, dê ngồi bàn tiệc
    Bà con nấu trong nồi”.

    Đây là một đám cưới vợ mà đại sư Hàn Sơn vào thời triều Đường thấy được. Cô dâu chính là bà nội của chú rể chuyển kiếp. Đồng thời lại thấy tân khách ngồi ăn thịt uống rượu trên bàn, vốn là gia súc trâu bò trước đây được nuôi trong nhà, và heo dê nấu trong nồi đều là bà con nội ngoại chuyển thế. Đại sư thấy vậy thương cho chúng sinh phàm phu trong sáu đường, điên đảo không rõ nhân quả, không ngăn được thương tâm ôm mặt khóc òa. Nghe xong bài kệ trên đây, nếu mọi người đều giới sát ăn chay, thì sẽ không có tuần hoàn nhân quả “người chết làm dê, dê chết làm người”, nhân thế cũng vĩnh viễn không còn nghiệp báo “bà con nội ngoại nấu trong nồi”.

    4. Người ăn chay tăng trưởng lòng từ bi

    Ăn chay đối với nhân loại mà nói, không kể là giữ được thân thể khỏe mạnh, hay tránh được nhân quả nghiệp báo, những lợi ích khác không thể nói cùng. Lại từ một người khuếch đại đến quốc gia xã hội, khiến cho xã hội an lành, thế giới hòa bình, có thể thấy lợi ích của ăn chay thật không thể tính đếm. Trong vô lượng lợi ích, tôi cho rằng lợi ích lớn nhất của ăn chay, phải là tăng trưởng lòng từ bi. Nghĩa là sao? Đại Trí Độ Luận nói: từ bi là gốc của Phật đạo. Nói rõ hơn một chút, người có lòng từ bi khả vọng thành Phật, làm pháp vương vô thượng cho tam thiên đại thiên thế giới, cho nên nói lợi ích lớn nhất của ăn chay là tăng trưởng lòng từ bi. Nghĩa của từ bi là cho vui cứu khổ. Từ bi đến cực điểm. Đại từ đại bi tức đồng Như lai. Kinh Phạm Võng nói: “Người ăn thịt, đoạn dứt hạt giống Phật tính đại từ bi, hết thảy chúng sinh thấy đều tránh xa”. Người ăn thịt sát sinh tự phì, đây chính là hành vi tàn nhẫn. Khuếch đại tâm tàn nhẫn này, có thể lợi kỷ hại tha, không việc ác nào mà không làm. Người ăn thịt, súc sinh thấy dáng, nghe mùi đều trốn chạy xa. Ví như kẻ đồ tể vào trong xóm, chó sủa giật hồi. Người ăn chay lòng nhân từ ngày một tăng trưởng, khuếch đại lòng từ, hết thảy chúng sinh tất đều yêu mến, đều muốn cho vui cứu khổ. Đây chính là nguyên lý từ bi căn bản của Phật đạo.

    Sát sinh ăn thịt thật là ác nghiệp, tất phải thọ báo không còn nghi ngờ gì nữa. Có điều là thọ báo tùy theo tâm giết và cách giết tàn nhẫn hay không mà có nhanh chậm, nặng nhẹ, không thể nói một cách khái quát. Nếu sau khi sát sinh, sám hối tu thiện cũng có thể chuyển hậu báo thành hiện báo, trọng báo thành khinh báo. Tôi vì muốn để cho mọi người hiểu một cách thiết thực việc ác báo sát sinh ăn thịt, không ngại hiện thân thuyết pháp. Sơ lược cho mọi người nghe tôi trải qua việc thọ báo ăn thịt như thế nào.

    Năm 18 tuổi, vì chống Nhật cứu nước, tôi đã rời ghế nhà trường, không hề do dự gia nhập hàng ngũ kháng chiến. Nhờ phước đức ông bà, chỉ làm thượng sĩ văn thư nửa năm đã được thăng quan. Từ đó, xa xỉ trong lương bổng. Trước khi tôi thoái hưu xuất gia, lương của tôi thuộc lương nghiệp vụ. Tục ngữ có câu: “Ở núi thì sống vào núi, ở nước thì sống vào nước”. Tôi tuy không đáng được một chữ, nhưng “làm quan được ăn lộc vua”, rốt cuộc tôi tiêu tiền như nước. Có tiền, tôi bèn ăn thịt uống rượu, tạo biết bao sát nghiệp, để rồi cả đêm trằn trọc bất an, do đó cảm thấy chán ớn tiền bạc. Sau xuất gia, không muốn thấy tiền, không muốn giữ tiền, quả thật chính do nguyên nhân này. Nhắc đến bản lĩnh ăn thịt uống rượu của tôi, tuy không nhiều lắm nhưng thật không vừa. Nói đến tửu lượng, đế trắng uống lần một hai chai chẳng ăn nhằm gì, ăn cá ăn thịt càng kinh người hơn. Hễ ngồi xuống là làm liền hai tiếng đồng hồ, ăn một hai cân thịt mỡ không thấy ớn. Tôi thích ăn thịt gà, thịt vịt nhất. Bữa ăn nào cũng có, nhưng ăn thế nào cũng không thấy ngán. Một năm ăn hết bao nhiêu sinh mạng chúng sinh, tôi không hề tính thử. Nhưng có một lần, chúng tôi đóng quân ở Khê Khẩu Áo, Định Hải, Chiết Giang. Lúc mới đến, các nơi phụ cận thôn trang này, đâu đâu cũng thấy gà vịt từng đàn. Mỗi ngày tôi đều nhờ cô chủ đi mua gà vịt giúp, bảo lính cần vụ giết thịt. Nhiều thì năm ba con, ít thì một hai con. Đóng quân ba tháng, mà gà vịt chu vi 5 dặm vuông bị chúng tôi ăn sạch. Có một chiều gió Đông Bắc lớn, tôi lại nhờ cô chủ đi mua gà giúp. Cô ta nói: “Ông còn muốn ăn nữa à! Gà vịt trong vòng 5 dặm vuông gần đây đều bị các ông ăn hết rồi, ông còn muốn ăn sao?”. Tôi nghĩ cô ta chắc vì sợ lạnh nên không muốn đi mua, do đó mới nói như vậy để trách tôi. Thế là tôi đích thân dẫn theo thằng lính cần vụ, đảo một vòng qua các làng xung quanh, quả thật chẳng còn thấy con gà con vịt nào, tôi mới biết rằng mình đã ăn gà vịt nhiều như thế, bất giác giật mình, tôi đã tạo nghiệp sát quá lớn. Năm 1953, tôi quy y Phật. Sau khi đọc kinh hiểu rõ nhân quả, tôi cấp tốc ăn chay muốn chuộc tội trước. Theo tôi biết, tin Phật, ăn chay công khai ngay trong quân đội thì chỉ có mình tôi, nhưng trong lòng lại có cảm giác “hối hận không còn kịp”. Vì cầu một lòng sám hối và hoằng pháp lợi sinh, lấy công chuộc tội nên tôi quyết chí xuất gia. Có lẽ cũng nhờ niệm thiện ấy, mà sát nghiệp tôi tạo đời nay, may ra trọng báo trở thành khinh báo, hậu báo trở thành hiện báo. Hai ngày trước lễ Đoan Ngọ năm 1974, trong thất Vô Lượng Thọ ở chùa Liên Quang, Nam Đầu. 8 giờ sáng điểm chuông bắt đầu lạy Tịnh độ sám. Lúc đó tôi đã bế quan hơn ba năm rồi, lạy Tịnh độ sám cũng đã hơn 9 tháng. Lạy xuống lạy thứ nhất, tôi cảm thấy thân bỗng nhẹ hững. Đi về hướng Tây, đi chưa được mấy bước thì nghe sau lưng có rất nhiều tiếng gà vịt kêu, ngoái đầu lại nhìn chợt thấy gà vịt hàng ngàn con xếp thành ba hàng đuổi theo tôi. Nhìn theo hàng của chúng, ước phải hơn hai dặm mới thấy được điểm tụ tập của chúng. Trên quảng trường trạm Cổ Xa ở Nam Đầu, ở đó còn có cả heo, bò... sắp ngay hàng thẳng lối lên đường, nhìn ngược lại vào mình, trước ngực đang ôm một con vịt đang cạp cạp inh ỏi, những chúng sinh ấy một kêu một đáp. Thấy tình hình này, tôi nghĩ chúng đến tìm mình tính sổ rồi đây, bất giác thất kinh như tỉnh cơn mê. Sau khi tiếp tục lạy xong Tịnh độ sám, sợ quá tôi lâm trọng bệnh, bèn gõ chuông gọi cư sĩ hộ thất Lưu Văn Vũ kể hết tự sự, nhờ ông ta chu đáo cho tôi hơn, trong thời gian gần đây không đi đâu xa. Đâu ngờ ngay tối hôm đó, trược té gãy chân trái ngay trong thất. Tuy mời Đông tây y trị liệu, tốn biết bao tiền của tín chúng, bản thân vẫn đau đớn nói không nên lời, chữa trị thế nào cũng không công hiệu, đến nỗi trở thành “pháp sư một cẳng”. Đây chính là nghiệp báo của tôi sát sinh ăn thịt. Tôi nay nói hết sự thật cho mọi người nghe. Tôi tuy hối hận đã quá muộn, nhưng mong mọi người lấy việc này của tôi làm gương. Mỗi người tự cảnh giác, những ai chưa ăn chay, hãy nhanh chóng giới sát ăn chay để tránh dẫm lên vết xe cũ của tôi.

    Cuối cùng, ngoài khuyến cáo các vị phát tâm giới sát ăn chay, các vị còn nên tu tập pháp môn Tịnh độ nữa, niệm Phật cầu sinh Tây phương, mới được rốt ráo lìa khổ được vui. Trì trai và niệm Phật, cả hai song hành thì lưỡng phần trọn vẹn, nếu chỉ hành một phía cả hai đều thất. Vì sao? Bởi nếu ăn chay không niệm Phật, đời sau nhờ nhân trì trai quá khứ, được giàu sang vinh hiển. Tục ngữ nói: “Một ngày ăn chay, thiên hạ sát sinh không có ta”, huống hồ cả đời trường chay, phước báo ấy làm sao tính đếm? Có phước báo đương nhiên là điều tốt. Nhưng những kẻ giàu sang, hết 9 phần 10 không muốn tu hành, gọi là “giàu sang học đạo khó”. Người phú quý không biết tu tập, tất nhiên cuộc sống của họ chỉ hướng đến hưởng thụ sắc dục, ăn uống, vui chơi. Ăn thì một bữa ngàn mạng chúng sinh, sắc thì gian dâm nữ tú, vui chơi thì nhảy múa ca hò. Những ai sống cuộc sống này, chắc chắn đời sau đọa lạc trong ba đường dữ, sang đời thứ ba tất phải chịu khổ. Lại nếu những người niệm Phật không ăn chay, thì lúc lâm chung bị nghiệp lực chướng tế không được vãng sinh, lưu nhập vào trong bát bộ quỷ thần. Đây chính là sự tổn hại giữa ăn chay và niệm Phật chỉ hành một phía. Nếu đã ăn chay lại niệm Phật, tức hiện tiền thân tâm được kiện khang an lạc, lâm chung vãng sinh Tây phương, thấy Phật nghe pháp chứng tam bất thoái, cuối cùng viên chứng Vô thượng Bồ đề. Lợi ích của công đức ấy rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không, vô lượng vô biên không thể nghĩ nghì.

    “Máu thịt tràn trề khen hợp miệng,
    Đâu hay oán tắng sánh bằng non!
    Thân ta chốn đó đang tâm nghĩ,
    Ai dám cầm dao cắt thịt mình.
    Xưa nay trong một bát canh,
    Oán sâu như bể hận thành non cao,
    Muốn hay nguồn gốc binh đao,
    Lắng nghe lò mổ tiếng gào đêm thanh”.

    Bài này trích từ trang thuvienhoasen.org
    Tuy nhiên,theo như em tham khảo,do điều kiện phần lớn của chúng ta là chưa thích hợp cho việc ăn chay trường nhằm mục đích tu tập thì hàng ngày,chúng ta nên cố gắng hết sức để hạn chế việc sát sinh< chủ yếu là ko sát hại con người,các gia súc,gia cầm> .Còn việc diệt vi trùng,sâu bọ... cũng là tạo nghiệp,xong đều là tội nhẹ< do mục đích vì người khác> nên có thể được nhẹ bớt phần nào .
    Tiếp theo là bài trong mục Tư Vấn của trang "giacngo.vn"
    Chiến thắng chính mình23/11/2008 15:35 (GMT+7)Kích cỡ chữ: HỎI: Chúng tôi đã từng nhiều lần cố gắng để vượt qua cám dỗ và những hạn chế của bản thân mà không thành công. Xin hỏi quý Báo làm cách nào để chiến thắng được chính mình?(KIM HƯƠNG, Đông Thành, Đức Huệ, Long An; LÊ VŨ, Cam Đức, Cam Lâm, Khánh Hòa)



    ĐÁP:Bạn Kim Hương và Lê Vũ thân mến!

    Một người luôn có những thao thức về những hạn chế, đam mê của chính mình để tìm cách khắc phục, vươn lên là điều đáng quý. Đây chính là động lực, nền tảng quan trọng cho sự chuyển hóa thân tâm. Theo Phật giáo, tâm ý là yếu tố chủ đạo (Ý dẫn đầu các pháp-kinh Pháp cú) dẫn dắt suy nghĩ, lời nói và việc làm của mỗi con người. Tất cả những biểu hiện tốt đẹp hay xấu ác đều bắt nguồn từ tâm ý. Do đó, để làm chủ được mình phải bắt đầu từ nơi tâm.

    Ngay đây, người muốn chiến thắng chính mình phải trau giồi cuộc sống hướng nội, thực tập trở về, quán sát tự thân để thấy rõ mọi diễn trình đang xảy ra mỗi phút giây nơi thân tâm của mình. Tâm ý của con người như một dòng sông với vô số ý niệm tuôn trào cuồn cuộn. Và chúng ta luôn bị sai khiến, dẫn dắt bởi những ý niệm ấy. Khi có chánh niệm, chúng ta sẽ nhận ra một điều vô cùng quan trọng là từ nơi ý niệm ban đầu cho đến lúc hình thành một lời nói hay hành vi cụ thể phải trải qua một quá trình. Nhưng vì chúng ta thiếu sự thực tập, quán sát tâm ý nên không ý thức rõ ràng về tiến trình ấy để kiểm soát và định hướng chúng. Do vậy, chúng ta thường giật mình, ăn năn khi sự đã rồi, trong khi đó, nếu ta biết tỉnh thức sớm hơn thì sẽ không đến nỗi nào.

    Có ba yếu tố quan trọng là nhận diện thân tâm, giữ vững chí nguyện và chọn môi trường sống lành mạnh cần được áp dụng liên tục trong đời sống để cảnh tỉnh bản thân, vượt qua cám dỗ, làm chủ được mình.

    Trước tiên, thực tập chánh niệm để trở về và nhận diện rõ thân tâm. Các bạn có thể thực tập niệm hơi thở, niệm danh hiệu Phật… và luôn ý thức sâu sắc về những gì đang xảy ra trong thân tâm, nhận diện tâm ý của mình ngay từ lúc chúng mới hình thành. Thấy rõ ràng những tham dục, đam mê, khát vọng đang âm thầm trỗi dậy và diễn hành trong tâm. Đơn cử như một người thích uống rượu, mơ màng nghĩ về một tiệc rượu vui vẻ với bạn bè, rồi cất bước đi đến quán rượu. Nhưng nếu có sự chú tâm cảnh giác với những ý niệm đang cám dỗ, sai sử thì chúng ta sẽ thức tỉnh kịp thời, không bị các ý niệm xấu ác dẫn dắt.

    Tuy nhiên, lắm lúc chúng ta đã thấy rõ những tâm niệm xấu ác diễn hành trong tâm nhưng lại không chế ngự được. Giống như một người sau khi đến quán rượu đã uống vài ly, được bạn bè mời mọc, chúc tụng lại muốn uống thêm nhưng do dự vì sợ bị say xỉn, bị bệnh đau bao tử hành hạ. Rồi sau phút ngập ngừng thì người ấy quyết định “chơi tới bến”. Dù thấy rõ sự nguy hại của say xỉn nhưng quá yếu đuối buông xuôi vì người ấy không có chí nguyện. Cho nên, lập thệ nguyện là điều vô cùng cần thiết. Có thể phát nguyện trước Tam bảo, phát nguyện trước những người thân hay tự lập nguyện với chính mình. Chí nguyện càng lớn, càng kiên cường bao nhiêu thì người lập nguyện càng vững chãi bấy nhiêu.

    Và quan trọng hơn, thiết lập các cộng đồng thân hữu thiện lành và xây dựng môi trường sống lành mạnh đồng thời cách ly hẳn với những nơi, những người thường say sưa, nghiện ngập. Giống như một người đang cai thuốc lá thì không nên gần những nơi đông người hút thuốc. Một người đang cố gắng nói không với rượu chè say xỉn thì tránh xa các quán rượu, tiệc tùng. Còn đối với người nghiện ma túy sau khi cai nghiện trở về muốn dứt điểm nghiện ngập thì phải tuyệt giao vĩnh viễn, cắt đứt quan hệ hoàn toàn với các con nghiện, bạn hút trước đây, thậm chí có thể chuyển đến sinh sống ở một nơi khác. Môi trường sống lành mạnh sẽ trợ duyên rất nhiều cho những ai muốn tránh xa các cám dỗ để làm chủ bản thân mình, không đi vào vết xe đổ đã vấp ngã.

    Ai cũng muốn tốt đẹp và luôn mong ước chuyển hóa để hoàn thiện nhưng vì chúng ta quá yếu đuối, dễ buông xuôi và không được sự hỗ trợ, chia sẻ tích cực từ những người thân và cộng đồng nên đã bao lần cố gắng vươn lên mà vẫn chưa thành công. Đức Phật dạy rằng, có hai hạng người mạnh nhất là hạng không sai phạm và hạng người có sai phạm nhưng biết sám hối và khắc phục. Vì thế, các bạn hãy dũng mãnh phát nguyện, quyết lập chí từ bỏ đồng thời học tập phương cách tu dưỡng để chuyển hóa thân tâm. Nếu các bạn kiên trì thực tập, giữ vững chí nguyện thì chắc chắn các bạn sẽ vượt lên chính mình, đạt đến hoàn thiện.

    Chúc các bạn tinh tấn!
     

    Xem thêm các chủ đề tạo bởi EnCon
    Đang tải...


  2. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Mười nghiệp lành:
    1.Không sát sinh:Từ bi,không sát hại, sẽ được khỏe mạnh,trường thọ
    2.Không trộm cắp: Ngay thẳng,không lấy của người ,sẽ được giàu sang,an ổn
    3.Không tà dâm: Trong sạch,không quan hệ bất chính ,sẽ được xinh đẹp,hạnh phúc
    4.Không nói dối:Chân thật,không dối gạt,sẽ được uy thế tiếng tăm
    5.Không thêu dệt:Trung thực,không xảo ngôn,sẽ được mọi người kính mến
    6.Không đâm thọc:Hòa hợp,không nói lời ly gián,sẽ được mọi người ủng hộ
    7.Không nói thô ác:Hòa nhã,không cay nghiệt,không thô tục,sẽ được cao sang
    8.Không tham lam:Rộng rãi thí xả,sẽ được vô lượng phước báu
    9.Không sân hận: Tự hòa,nhẫn nại,sẽ được vô lượng duyên lành
    10.Không si mê:Sáng suốt,tỉnh giác sẽ được vô lượng trí tuệ
     
  3. PiEm

    PiEm Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    28/4/2005
    Bài viết:
    363
    Đã được thích:
    96
    Điểm thành tích:
    28
    Hay lắm, tiếp tục đi bạn.
    Nam mô a di đà phật
    Nam mô a di đà phật
    Nam mô a di đà phật
    Nam mô a di đà phật
    Nam mô a di đà phật
     
    Loanhoanghanoixuan thích.
  4. hanoixuan

    hanoixuan Thành viên sắp chính thức

    Tham gia:
    25/1/2009
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    107
    Điểm thành tích:
    33
    Phật Giáo: Trí tuệ và Từ bi

    Cảm ơn EnCon đã mở topic này nhé, vô cùng hữu ích :)
    Tớ cũng xin tham gia cho thêm phần thông tin nhé !

    MƯỜI VIỆC THIỆN (thập thiện)

    Một hành động được gọi là “thiện” khi nó đem lại sự an vui, hạnh phúc, giải thoát và giác ngộ cho mình, cho mọi người và mọi loài. Ngược lại thì là “ác”, hay “bất thiện”. Người tu học thì dĩ nhiên suốt đời chỉ nguyện làm việc thiện và tránh làm tất cả những việc bất thiện. Một cách tổng quát, có mười loại việc thiện như sau:
    1. Không giết hại sinh mạng cũng như không tán thành và khuyến khích sự giết hại. Phải tìm mọi cách có thể để bảo vệ sinh mạng. Phải chọn những công việc mưu sinh nào không gây tàn hại cho con người, loài vật và thiên nhiên.
    2. Không lấy làm tư hữu những tiền bạc và của cải không do chính mình tạo ra hoặc không do người khác biếu tặng. Không gây dựng tài sản bằng những phương cách bất hợp pháp. Phải tôn trọng quyền tư hữu của người khác, nhưng đồng thời cũng phải biết tìm cách ngăn chận, khuyến hóa những kẻ làm giàu bất lương trên sự đau khổ của quần chúng bị áp bức, thua thiệt.
    3. Dù là độc thân hay đã lập gia đình cũng không được phá hoại danh dự và hạnh phúc của bản thân hoặc gia đình mình, cũng như của người hoặc gia đình người khác, tức là không tà hạnh, không ăn nằm với những người chưa hoặc không phải là vợ hay chồng mình. Phải ý thức được những đổ vỡ, những khổ đau mà mình có thể gây ra cho người khác vì hành động bất chính của mình. Và do đó, cần phải tích cực bảo vệ danh dự và hạnh phúc cho bản thân và gia đình mình cũng như cho người và gia đình người khác.
    4. Không nói những lời dối trá, thêu dệt, điêu ngoa, xúc siểm nhằm khoa trương và mưu cầu danh lợi, địa vị cho mình, hoặc để vu oan giá họa cho người. Phải thành thật nhìn nhận những sai lầm của mình để hối cải. Phải can đảm nói lên sự thật để cứu người vô tội, cũng như để phơi bày những âm mưu gian dối, xảo trá, bất công và tàn ác. Phải luôn luôn đối xử chân thật với mọi người.
    5. Không nói lời li gián nhằm gây nên không khí bất hòa giữa những người khác, tạo sự chia rẽ và đổ vỡ trong tổ chức, đoàn thể. Phải nói lời xây dựng, hòa giải. Phải tạo sự đoàn kết giữa mọi người.
    6. Không nói lời ác độc, hung dữ, cộc cằn, lỗ mãng như cãi vã to tiếng, chửi mắng hay nguyền rủa, tạo nên sân hận, oán thù. Phải nói lời ôn hòa, nhã nhặn, dịu dàng nhằm tạo sự thông cảm, thương yêu, hòa điệu.
    7. Không nói những lời thô tục, dâm đãng. Không dùng lời lẽ trau chuốt ngọt ngào cốt mê hoặc, dụ dỗ người. Không nói những lời vô ích. Không lên án hoặc rao truyền những điều mà mình không thấy biết rõ ràng, chính xác. Không nói những lời gây hoang mang cho mọi người. Phải nói những điều đứng đắn và xác thực hầu đem lại sự hiểu biết chính đáng cho người. Những lời nói như vậy lúc nào cũng có ích và luôn luôn tạo được niềm an vui và gây tin tưởng cho người nghe.
    8. Không để cho tâm tham dục điều khiển mình. Phải thường xuyên tỉnh thức, không để cho bị quyến rũ bởi năm thứ dục vọng rồi lấy đó làm mục đích chính của đời mình. Phải biết sống giản dị để dùng thì giờ và khả năng của mình phụng sự xã hội. Phải biết san sẻ những gì mình có thể san sẻ được để giúp đỡ người trong mọi hoàn cảnh khổ đau.
    9. Phải ngăn ngừa, đừng để cho tâm sân hận và oán thù phát sinh. Nếu nó đã phát sinh thì đừng để nó tồn tại và phát triển, mà phải tìm mọi cách hữu hiệu (như theo dõi hơi thở, quán niệm về từ bi và duyên sinh chẳng hạn) để tiêu diệt nó ngay. Luôn luôn đối xử với mọi người bằng thái độ hòa nhã, khiêm tốn và vui vẻ.
    10. Không có thái độ cuồng tín đối với những điều không do trí tuệ soi sáng. Không mù quáng tin theo những tà thuyết trái chống với những nguyên lí nhân quả, duyên sinh, vô thường, vô ngã v.v... Không cố thủ những tri kiến sai lầm của mình và gạt bỏ tri kiến của người. Không phẩm bình người khác bằng những thành kiến hẹp hòi, cố chấp của mình. Phải học tập thái độ phá chấp và biết cởi mở để lắng nghe quan điểm của kẻ khác. Phải luôn luôn tìm cầu học hỏi để phát huy trí tuệ và dùng trí tuệ ấy để soi sáng, làm hiển lộ sự thật duyên sinh trong mọi vấn đề liên quan đến bản thân, con người, mọi loài, và vũ trụ.
    Mười việc thiện trên đây là những nguyên tắc hướng dẫn cuộc sống gia đình và xã hội của đạo Phật, được dùng làm giới luật hành trì cho chúng cư sĩ tại gia, cho nên cũng được gọi là “Giáo luật mười việc thiện” (thập thiện giới), có thể đọc tụng tại gia đình mỗi tháng một hay hai lần.

    (xin lỗi là mình tích cóp các bài này từ lâu lâu nên không còn nhớ rõ nguồn :()

    Chúc tất cả luôn bình an và hạnh phúc,
     
  5. debui

    debui Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    29/5/2007
    Bài viết:
    1,029
    Đã được thích:
    184
    Điểm thành tích:
    103
    Mình cũng góp 1 tí , bài dài quá nhưng mình chỉ tóm gọn lại ý chính :
    AI Cũng phải học làm người
    1. Thứ nhất học nhận lỗi:
    2.Thứ nhì học nhu hoà:Răng thì cứng, lưỡi thì mềm . Nhưng răng rụng trước còn lưỡi thì còn nguyên . Cho nên cần học mềm mỏng , nhu hòa...
    3.Thứ ba học nhẫn nhục:biết xết hóa giải .
    4. Thứ tư học thấu hiểu :thấu hiểu thông cảm lẫn nhau
    5 Thứ năm học buông bỏ :Cuộc đời giống chiếc valy: cần thì xách , kg cần thì buông bỏ
    6. Thứ sáu học cảm động: thấy đều kg may của người khác nên cảm động .có tâm bồ tát
    7 thứ bảy học sinh tồn : bảo vệ thân thể khỏe mạnh
     
  6. hanoixuan

    hanoixuan Thành viên sắp chính thức

    Tham gia:
    25/1/2009
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    107
    Điểm thành tích:
    33
    20 ðiều khó trong cuộc sống

    Phật dạy làm người có 20 điều khó:

    1. Nghèo nàn bố thí là khó.
    2. Giàu sang học đạo là khó.
    3. Bỏ thân mạng quyết chết là khó.
    4. Thấy được kinh Phật là khó.
    5. Sanh vào thời có Phật là khó.
    6. Nhẫn sắc, nhẫn dục là khó.
    7. Thấy tốt không cầu là khó.
    8. Bị nhục không tức là khó.
    9. Có thế lực không dựa là khó
    10. Gặp việc vô tâm là khó.
    11. Học rộng nghiên cứu sâu là khó.
    12. Diệt trừ ngã mạn là khó.
    13. Không khinh người chưa học là khó.
    14. Thực hành tâm bình đẳng là khó.
    15. Không nói chuyện phải trái là khó.
    16. Gặp được thiện tri thức là khó.
    17. Thấy tánh học đạo là khó.
    18. Tùy duyên hoá độ người là khó.
    19. Thấy cảnh tâm bất động là khó.
    20. Khéo biết phương tiện là khó./.
     
  7. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Nâng đỡ13/06/2009 11:30 (GMT+7)Kích cỡ chữ:


    Bàn tay từ ái

    Có những lúc ta rơi vào vũng lầy khổ đau tuyệt vọng, hay bối rối hoang mang trước khúc quanh của cuộc đời, thật không có gì bằng khi có một cánh tay tình thương đưa tới cho ta tựa vào và truyền thêm sức mạnh, để vết thương trong ta được xoa dịu, để nguồn sống trong ta được đánh thức và giúp ta vượt qua những đoạn đường nghiệt ngã. Bàn tay ấy tuy không phải là phép mầu, nhưng nó có chứa chất liệu của tình thương, nó có mặt một cách kịp thời và hợp lý để xâu kết những điều kiện có sẵn của một sức sống tiềm tàng trong ta bừng dậy. Đó là bàn tay nâng đỡ mà ai cũng cần ít nhất vài lần trong đời, vì sống trong đời sống này có mấy ai luôn mỉm cười thanh thản trước những đổi thay bất chợt?

    Khi em ngã thì anh nâng, khi anh ngã thì em nâng, nếu em và anh có liên hệ có tình thương và có sẵn một khả năng để nâng đỡ. Dù đó chỉ là một hành động lắng nghe chăm chú, một lời động viên an ủi, hay một thái độ bao dung tha thứ cũng có thể làm cho tình trạng của kẻ trong cơn nguy khốn được lành lặn và chuyển hóa. Ta không thể nói ta không cần ai hết, bởi ta không thể đi một mình trong cuộc đời này. Vậy mà có những lúc vì tự ái, vì muốn khẳng định mình, vì thiếu chín chắn, ta đã dại dột tuyên bố những điều hết sức nông cạn như vậy. Nhưng sự thật ta chưa bao giờ ngưng tiếp nhận niềm tin yêu từ những người thân, ta chưa bao giờ sống được mà không có sự nâng đỡ của đất trời hay vạn vật chung quanh, dù có khi sự nâng đỡ đó được thể hiện trong vô tướng.

    Vậy nên những khi ta đang vững vàng thì hãy nhìn chung quanh mình, nhìn xuống thật gần để xem có ai đang cần tới bàn tay nâng đỡ của mình không? Đó là cái nhìn của một người trải nghiệm, đã từng thấm thía nỗi đau tột cùng khi không kịp lấy lại sức vì vấp ngã. Đó là cái nhìn của một người hiểu biết, nắm vững được nguyên tắc điều hợp vũ trụ: có cái này nên mới có cái kia, nếu cái kia tàn hoại thì cái này cũng bị lãnh đủ. Tuy ta đưa cánh tay đến để nâng đỡ đối tượng kia, nhưng kỳ thực là ta cũng đang nâng đỡ chính mình. Tuy ta đang tạo ra những năng lượng an lành để bảo vệ mầm sống chung quanh, nhưng đích thực là ta đang bảo vệ đời sống của chính mình. Vì vậy cánh tay nâng đỡ đó phải là cánh tay của từ ái, của tình thương không điều kiện hoặc rất ít những điều kiện.

    Mà tại sao ta muốn người kia phải làm cái gì đó cho ta thì ta mới chịu cứu giúp, trong khi ta đã thấy rõ tình trạng khốn khó mà họ đang gánh chịu và con tim ta đã rung động chân thành? Họ đang đuối sức và cần ta, chứ họ không thể phục vụ gì thêm cho ta nữa. Ta hãy giữ vững niềm rung cảm chân thành ban đầu, đừng để cho ý niệm ích kỷ toan tính chen vào, đừng để cho những lời bàn tán vô trách nhiệm làm khuynh đảo. Nếu thấy mình vẫn còn đủ năng lực thì hãy chia sớt cho người kia một phần. Phần nhận được không chỉ làm hồi sinh cho chính kẻ ấy, mà hồi sinh cho cả năng lực tâm từ trong ta nữa. Tại vì ta vốn có sẵn một trái tim thương yêu rất lớn, lớn đến mức không còn biên giới, nhưng nếu không có những mảnh đời trái ngang kêu cứu thì tâm từ ấy sẽ không thoát thai được.

    Thái độ nâng đỡ

    Trong liên hệ thương yêu, không phải lúc nào người kia cũng cần ta mang thêm thứ gì lớn lao cho họ, cái họ cần đôi khi chỉ là sự có mặt đích thực của ta. Ta nói ta thương họ mà ta cứ đi biền biệt hoài, chỉ biết điện thoại hoặc gửi tin nhắn hay những lần gặp gỡ vội thì người kia trở nên héo tàn là phải. Ta phải có mặt bằng cả con người của mình, cả thân lẫn tâm, một sự có mặt đầy vững chãi và thảnh thơi để cho người kia thấy được sự hết lòng của mình và cả giá trị của họ trong mắt mình. Cho nên lâu lâu ta cũng nên dành trọn một buổi hay một ngày để ngồi chơi với những người thân, dù không phải làm điều gì đặc biệt, chỉ im lặng mỉm cười hoặc tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc trong tâm người ấy bằng những lời lẽ chân thành sâu sắc là ta đã tặng cho họ món quà rất lớn rồi.

    Cuộc sống bận rộn quay cuồng nên ta dần đánh mất thói quen công nhận hay khen tặng người khác, dù họ rất xứng đáng. Trái lại, vì ta đã bỏ ra quá nhiều năng lực và cảm xúc cho việc tích góp danh vọng, nên lúc trở về với những người thân ta bỗng trở thành đứa bé vô trách nhiệm hay vòi vĩnh những điều hết sức ngây ngô, hoặc thậm chí ta còn dễ dàng chê trách những chuyện không đâu, gây áp lực nặng nề cho kẻ khác. Lẽ dĩ nhiên có những lúc ta cần được nâng đỡ, nhưng nếu ta nghĩ là họ phải có trách nhiệm đem tới nguồn tinh thần cho ta, đổi lại ta sẽ mang thật nhiều tiện nghi vật chất về cho họ thì ta đã sai lầm. Khó có ai có thể sống vững mà không được quan tâm, không được công nhận.

    Vậy nên thỉnh thoảng ta hãy hỏi người kia có gặp khó khăn gì cần ta nâng đỡ không? Sống chung với một người mà lúc nào cũng sẵn sàng mở lòng ra để nâng đỡ, lúc nào cũng có sẵn trên môi câu nói “Có cần tôi nâng đỡ gì không?” thì hạnh phúc biết chừng nào. Ta đừng sợ nói ra thì người kia sẽ vắt kiệt năng lượng của mình. Không đâu, ta hãy cứ thực tập đi rồi sẽ thấy ta đã thừa hưởng hạnh phúc ngay khi ta mở miệng nói câu nói ấy rồi, huống chi vẫn còn tùy ở khả năng đang có mà ta trọn quyền định liệu. Điều quan trọng là ta có thiện chí muốn chia sẻ tình thương đến mọi người, luôn muốn mọi người hạnh phúc hơn, tức là ta đã làm được điều con tim muốn ta làm.

    Nhưng ta đừng vội nản lòng khi thấy mình đã hết lòng nâng đỡ rồi mà sao người kia vẫn chưa thay đổi. Một sự chuyển hóa bao giờ cũng hội tụ rất nhiều điều kiện chứ không thể chỉ dựa vào phần đóng góp của riêng ta mà nó xảy ra được, và chưa chắc là phần đóng góp ấy có giá trị thiết thực cho người kia nữa. Huống chi những điều kiện để tạo nên sự chuyển hóa trong người kia vẫn đang xảy ra và một số điều kiện khác cũng đang trên đường đi tới, ta hãy kiên nhẫn chờ đợi và không ngừng sự nâng đỡ. Biết đâu những điều kiện sau cùng để thay đổi lại xuất phát từ chính thiện chí và tình thương của ta. Cho nên ta đã thương và muốn cứu giúp rồi thì đừng rút cánh tay lại, cũng có thể khi ta thu năng lượng che chở ấy lại thì người kia mới thật sự rơi tỏm xuống vực sâu, vì niềm tin của họ của đã dồn về phía ta, chỉ có ta đem tới nhân duyên ứng hợp để giúp họ thay đổi mà thôi.

    Ta hãy luôn nhớ rằng tình thương mà mang theo quá nhiều điều kiện thì coi chừng ta đang thương bản thân mình chứ không phải là đang thương đối tượng kia. Đừng để hạt giống ích kỷ đánh lừa. Để trắc nghiệm ta hãy thường xuyên tự chất vấn mình nếu lỡ người kia không chịu tiếp nhận, hoặc nghi ngờ tấm lòng tốt của ta thì ta sẽ ra sao? Nếu vì những phản ứng của họ mà ta dập tắt ngay ý niệm muốn cứu giúp là chứng tỏ lòng chân thành của ta đã chưa đủ lớn. Đành rằng không phải lúc nào sự giúp đỡ của ta cũng là điều kiện cần thiết cho người kia, nhưng nếu ta đã thương và muốn giúp đỡ thì hãy cứ kiên nhẫn chờ đợi đến khi họ cần. Một tấm lòng tốt sẽ không bao giờ là thừa thải. Ta hãy nâng niu lòng nhiệt tâm giúp đỡ của mình, đừng để nó bị hao mòn hoặc chai cứng, thì sau này ta sẽ khó để đặt xuống một tình thương.

    Đi như một bầy chim

    Cũng có khi vì thói quen sĩ diện hay tự ái quá lớn mà ta luôn có khuynh hướng che đậy những khó khăn của mình. Như ta đang rất khổ sở vì mối nghi ngờ ngày một đè nặng trong lòng nhưng lại không chịu nói ra, vì nếu nói ra sợ người kia nghĩ ta là kẻ tầm thường hay yếu đuối nên chỉ biết cắn răng chịu đựng. Người kia gạn hỏi thì ta lại nói là không sao cả, ta đang rất ổn. Khi đã cố gắng hết sức rồi mà tinh thần vẫn rơi xuống thấp như vậy thì tại sao ta không nhờ đến sự nâng đỡ của người kia? Vậy sống với nhau để làm gì? Đôi khi chỉ cần một lời giải thích đơn giản là vấn đề được sáng tỏ rồi, ta sẽ không tự giam mình trong những ngày tháng u tối chỉ vì những tri giác sai lầm.

    Hãy nhìn loài thiên nga mỗi khi cùng bầy di cư về miền đất ấm trước khi mùa đông đến. Chúng thường bay chung với nhau theo hình chữ V, nhịp vỗ cánh của con bay sau sẽ tiếp sức cho nhịp vỗ cánh của con bay trước, cứ thế mà chúng tiết kiệm được 70% công lực thay vì bay một mình. Trên thực tế chưa bao giờ có con thiên nga nào dám một mình bay từ phương Bắc về phương Nam, vì đoạn đường có khi dài tới hàng trăm hoặc hàng nghìn dặm. Điều kỳ thú là khi con dẫn đàn thấm mệt thì nó sẽ lùi lại để con thứ hai hoán vị với mình, nó không bao giờ độc tài lãnh đạo cả. Đặc biệt hơn nữa, khi có một con thiên nga bất ngờ bị kiệt sức hay trúng thương thì nó sẽ cử hai con mạnh khỏe khác ở lại yểm trợ và cả đàn sẽ giảm tốc độ tối thiểu để chờ chúng đuổi theo. Chúng không bao giờ bỏ qua sự nâng đỡ và yêu thương đồng loại của mình.

    Khi nhìn bầy thiên nga luôn đi bên nhau có thể ta sẽ rơi nước mắt. Tại vì ta rất tôn sùng chủ nghĩa cá nhân, rất thích sống biệt lập, nên không muốn ai đụng tới mình và ta cũng chẳng buồn quan tâm đến nỗi khổ niềm đau của kẻ khác. Ngay với những người thân trong gia đình mà ta vẫn còn sống rất ơ hờ thì đừng nói chi đến hai chữ “đồng loại” lớn lao kia. Mà có lớn lao gì đâu, mình không thương được đồng loại của mình, mình không nâng đỡ được đồng bào của mình, mình không chia sớt được nỗi khổ niềm đau của dân tộc mình thì làm sao mình có thể đứng vững trong trời đất này kia chứ? Nếu có, thì đó cũng là sự vay mượn giả tạm mà cái giá phải trả cũng sẽ rất đắt.

    Biển đời mênh mông vô tận, trong lòng nó luôn chứa những đợt sóng ngầm, nó sẽ sẵn sàng kéo con thuyền ta ra xa và nhấn chìm bất kỳ lúc nào nếu ta không kịp tỉnh táo và đủ sức để đối phó. Vậy nên ta hãy đi với nhau như một bầy chim, hãy cùng những người thân siết chặt tay nhau để đủ sức vươn lên những cánh buồm lớn cho con thuyền lướt nhanh tới phía trước. Ta đừng kẹt vào tài năng hay sự may mắn rồi tự ban cho mình một vị trí quá lớn mà trở nên khó khăn để hòa nhập với mọi người chung quanh. Đó là một thiệt thòi rất lớn, vì sức mạnh của đoàn thể bao giờ cũng có tính chất chở che và soi sáng.

    Ta không nhất thiết phải làm thuyền trưởng thì ta mới có thể tham dự trên con thuyền vượt khơi. Mỗi vị thủy thủ chỉ cần tự biết được trách nhiệm của mình và sẵn sàng hoán vị với người khác khi cần thiết để mình kịp thời lấy lại phong độ mà ứng phó với những đợt sóng vô tình phía trước là được. Hãy đi bên nhau để có cơ hội va chạm, để buông bỏ bớt lòng cố chấp, để tập nhường nhịn và hòa điệu với nhau. Đó là những yếu tố quan trọng làm nên bản lĩnh và thành công của con người.

    Ta hãy sống đời sống của một con người có hiểu biết và thương yêu, hãy chấp nhận nhau như những con thiên nga luôn chấp nhận đồng loại của mình. Đừng vì nhu yếu hưởng thụ quá lớn, đừng vì cái tôi hẹp hòi bé nhỏ, để lúc nào ta cũng xây dựng trong lòng ngục thất của nghi ngờ, lo lắng và sợ hãi khi tiếp xúc với người khác. Còn đi chung đường với nhau, còn nhìn nhau tận mặt và sẵn sàng lên tiếng khi cần nhau hay hết lòng nâng đỡ nhau là ta đang giữ được thiên chức của một sinh linh mầu nhiệm rồi. Hãy giữ lấy con đường ấy, vì đó chính là con đường đưa tới hạnh phúc chân thật!

    Đi như một bầy chim

    Vượt vùng trời băng giá

    Đừng một mình ra khơi

    Biển đời nhiều sóng cả.

    Nguồn:giacngo.vn
     
    Sửa lần cuối: 16/6/2009
  8. bibi-baby

    bibi-baby Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    21/8/2008
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    27
    Điểm thành tích:
    28
    Em muốn đi theo bác học tập, bác có quy y không ạ ???
     
  9. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Ui,em chỉ là kẻ phàm phu tục tử,đạo hạnh nông cạn kém cỏi thôi bác ạ!Em cũng muốn theo nhà Phật mà ko có điều kiện< vì kéo theo cái tàu chồng con> nên đành cố gắng học tập theo nhà Phật trong khả năng có thể .Các bác muốn có thể tới các chùa,hỏi về buổi giảng đạo của các sư thầy,cũng như tìm mua sách KInh nhà Phật để học hỏi .Ngoài ra search Google cũng có nhiều trang web Phật Giáo rất hay để ta tham khảo,chủ yếu tài liệu là em lấy bên trang giacngo.vn của Thành Hội Phật Giáo TP HCM .Rất phong phú và dễ hiểu.Chúc các bác tu tập thành công,cảm ơn đã theo dõi và mong được đóng góp thêm nhiều tài liệu,cảm ơn bác debui và hanoixuan đã đóng góp bài vở rất bổ ích!
     
    me.rongcondebui thích.
  10. hanoixuan

    hanoixuan Thành viên sắp chính thức

    Tham gia:
    25/1/2009
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    107
    Điểm thành tích:
    33
    không sát sinh và hãy ăn chay để bớt nghiệp ác

    nhân bạn Encon đăng một số bài cổ vũ chuyện ăn chay, tôi xin góp một câu chuyện. Câu chuyện này đã làm cho tôi vô cùng cảm thán và đã phát tâm ăn chay, tuy hiện tại ăn chay đoạn, nhưng tôi quyết tâm sẽ tiến dần đến việc loại bỏ thức ăn động vật ra khỏi khẩu phần hàng ngày của mình, và giảm thức ăn động vật cho cả gia đình.

    Mong cho tất cả đều được lợi lạc từ câu chuyện này,
    Chúc tất cả luôn an bình và hạnh phúc :heart:

    _________________

    LỜI TỰ TRẦN CỦA CÔ BA CHÁO GÀ

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Mô Phật
    Bạch Thầy,
    Trước kia con là người đại ác, nhưng sớm thức tỉnh tu hành, theo Phật, Pháp, Tăng, trong lúc hành đạo, con đã trải qua bao nhiêu thử thách đắng cay. Số ḿệnnh dốt nát, Kinh Luật chẳng thông, phiền một nỗi tuổi già tu muộn. Ngoài đời khảo đảo, trong đạo lại mỉa mai, biết mình nghiệp nặng, kiếp trước vụng tu. Nên con có nguyện cùng mười phương chư Phật cho con được trả hết nghiệp trong một kiếp này, mong nhờ kiếp sau trong sạch mà đi ngay vào đường đạo, không còn bị oan gia dẫn dắt, nghiệp chướng kéo lôi.
    Vì thời đại nguyện đắc thành, nên Diêm chúa cho bắt hồn con xuống Địa Ngục để sử án. Ôi, vì mình tạo ác nên phải trả nghiệp thật quá xót xa tê tái. Nào trầm mình nơi biển lạnh, thân thể cứng đờ, nào bị bầy gà , vịt mổ đá, cắn xé tơi bời, nào nuốt lửa toàn thân lên khói, nào ngất xỉu nơi địa ngục thứ bảy: vì thấy sự hành phạt quá gớm ghê, nào phải vào núi lửa ở cửa ngục thứ mười, tưởng đâu thân này ra tro mạt .
    Đáng lẽ con phải chết luôn, nhưng ơn trên thấy chúng sanh đời mạt pháp, tội ác chập chồng không tin nhân quả, tưởng đâu chết rồi là hết, nên cho con sống lại để nói chuyện Địa Ngục, hầu nhắc nhở bà con, cô bác sớm thức tỉnh tu hành.
    Đến khi trở về cõi thế, thân con còn phải mang câm, điếc. Thế mà lắm người nông nỗi, cho con là tà đạo, dùng lời giả dối để mê hoặc chúng sanh. Như uống nước: nóng hay lạnh tự ḿnh biết lấy, chớ việc chánh tà lư đạo đã quá phân minh.
    Con nghĩ: Đạo Phật là đạo từ bi, xót thương vạn loài đang lặn hụp trong biển khổ sông mê, đồng thời tìm phương giải cứu, để tận diệt gốc khổ cho chúng sanh. Xét vậy dù cao hay thấp dù thật hay huyền diệu, đều đồng mục đích dẫn dắt chúng sanh đến bờ giác ngộ giải thoát.
    Mô Phật,
    Nhưng hôm nay thầy chẳng đắn đo lời thề, gạt bỏ tiếng thị phi, cho phép con kể chuyện Địa Ngục cho thầy nghe, nhờ thầy chứng minh cho con, nếu như chánh thì thầy bảo con kể để nhắc nhở bà con, cô bác tu hành, còn như tà thì thầy dạy con không nói nữa.
    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Thích Nữ Huệ Hiền kính bút (Tục danh Cô Ba Cháo Gà)

    Đây là những lời của thầy Thích Nhựt Long (tôi chỉ xin trích đoạn cuối)
    ..... Thích nữ Huệ Hiền, tục danh Cô Ba Cháo Gà đã thật chứng kiến về việc âm phủ rõ ràng cho nên sợ hãi, từ đó tu hành quyết dứt sạch nghiệp chướng oan khiên, đă tự lợi bao nỡ điềm nhiên chẳng vì tha lợi, nên cô đă đem việc này nhắc nhở cho người đời sớm mau thức tỉnh, kẻo để đến lúc ăn năn rất muộn.
    Vì có người nghe, thấy, biết những việc kể về âm phủ trúng chứng bịnh của mình, nhưng cũng cứ chạy theo danh lợi nên làm càn nói bướng, cho rằng: "Thuyết của Cô Ba Cháo Gà là mị ngữ tà đạo".
    Thưa quư vị, mị nữ tà đạo là gì? Theo tôi thì: "Lời nói nhắc nhở khuyên người tu thiện dứt dữ, không phải là mị. Thuyết Địa Ngục từ người đời cho đến tôn giáo đều nhìn nhận không phải là tà ma".
    Vì tự lợi, lợi tha nên không nề lời phê phán, tôi lược kư thuyết Địa Ngục do Cô Ba Cháo Gà kể lại, để cống hiến cho quí vị sớm suy xét tu hành, hầu mong khỏi tội lỗi đọa lại.
    Thích Nhựt Long cẩn chí

    _______________


    NẰM MỘNG
    Nam Mô A Di Đà Phật, nay tôi xin nói chuyện Địa Ngục vì người thế gian ít biết về Địa Ngục được. Nhân vì tôi là người đại ác, Diêm chúa cho người bắt tôi xuống Địa Ngục, hôm nay tôi đặng về đây là do một đại nguyện và nhân duyên như sau: Trở về cõi Diêm Phù này để nói cho cô bác được rõ những tội phước của tôi như thế nào, tại sao tôi phải đi Địa Ngục?
    Tôi đi Địa Ngục là đền tội lỗi và nhờ lực nguyện có duyên lành để nói lại cho cô, bác biết sự quả báo, phòng tránh là việc sát sanh hại mạng không phạm tội sa Địa Ngục như tôi. Trước khi đi Địa Ngục có nguyên nhân: vì tôi là CÔ BA CHÁO GÀ ở chợ Ṿòng Nhỏ, một vùng chợ Mỹ Tho, danh từ này ai cũng đều biết. Tôi bán cháo gà một thời gian từ năm Ngọ cho đến cuối năm Mùi gần ngót 18 tháng. Ngày 16 tháng 11 rạng 17, tôi định sắp sửa nấu cháo gà. Trong đêm đó tôi nằm mộng thấy cắt cổ một con gà mà nó hiện làm người ta, khi đó tôi nói: "Ủa tại sao ông thành người ta, làm sao tôi nhúng nước sôi cho được?". Ông ấy đáp: "Mầy chết! Chớ nhúng nước sôi, tao là ông nội của mày đây!".
    Tôi hỏi: "Ông nói tôi không tin, ông nội tôi sao lại không giống?". Ông đáp: " Giống sao được, vì hồi còn sống, ông nội sát sanh hại mạng cũng nhiều, khi chết, con cháu lại làm heo, gà, vịt để lo tống táng. Cho nên ông làm thú biết bao nhiêu kiếp mà trả chưa xong, vì thay hồn đổi xác nhiều đời làm sao còn giống được mà con biết. May nhiều đời trước có chút công tu nên được Diêm chúa cho về bảo con cháu biết. Con rán tu đừng sát sanh hại vật phải đọa Địa Ngục như ông quá khổ sở".
    Tôi hỏi: "Ông nói tôi cũng chưa tin, ông tên là gì?". Ông đáp : "Ông là Huỳnh Văn Vấp, cha mầy là Huỳnh Văn Thánh, mầy là Huỳnh Thị Nhi, con tin chưa?". Tôi đáp: "Ông nói đúng sự thật, nhưng thấy tướng mạo tôi còn nghi". Ông bèn tiếp: "Thôi con rán tu đi rồi biết, chớ đừng nghi, ông cho con hay, con tội lỗi rất nhiều, vì sát sanh, không những gà vịt mà thôi, cho đến trùng, dế, kiến, chuột bọ, rắn rít đều có tội hết. Con nên cố gắng tu đi, để cầu siêu cho ông với".
    Đến đây, đồng hồ ré, tôi giựt ḿình xem đúng 3 giờ khuya. Thường khi nấu cháo gà cũng giờ đó, và ngày đó lại nhằm ngày 17 tháng 11 vía Phật A Di Đà. Tôi liền đem gà bán hết và không làm nghề nấu cháo gà nữa, bắt đầu ăn chay trường tụng kinh, trải 6 năm như vậy.

    CHẾT ĐI ĐỊA NGỤC LẦN THỨ NHẤT

    Thời gian sáu, bảy năm cư sĩ tại gia, thường ngày tụng kinh Di Đà, Phổ Môn và niệm Phật, lần lần tụng đến kinh Địa Tạng, Pháp Hoa . Tính ra từ 17 tháng 11 năm Mùi cho đến ngày 23 tháng 4 năm Dần. Khi đó vào lúc 6 giờ chiều, tôi đang ngồi niệm Phật, bỗng từ đâu chẳng biết, đứng sững trước mặt tôi một vị mặt đen như than, lớn tợ mâm, bụng bự chòm hòm, muốn chụp tôi. Sợ quá tôi la oai oải, náo động cả xóm, rồi té xuống đất bất tỉnh.
    Bỗng nghe tiếng con kêu khóc thấy mình đang đứng trước cửa, có một số người rất đông, biết đây là người âm chứ không phải người dương, là ma quỉ gì đây, tôi không rõ. Họ đang xầm xì với nhau. Nhìn trong nhà thấy con đang ôm đầu tôi khóc thảm và kêu: "Má, má". Còn lối xóm, người đánh lưng bóp cẳng, thoa tay, cạo gió, đủ thứ. Tôi rất đau lòng biết mình đã chết, có lẽ vì công tu quá ít mà tội lỗi thì nhiều, thôi giờ rán niệm Phật, xin Phật cứu độ cho, chớ không dám nh́n vào xác nữa. Khi nhìn ra ngoài niệm Phật thì thấy vị thần đổi sắc mặt, vui vẻ kêu tôi: "Sư nữ, Sư nữ, ngài hãy bắt hơi thở đi".
    Tôi suy nghĩ có lẽ là ma hay quỉ gạt mình đặng bắt hồn chớ gì, bèn nói: "Các ngài làm trước rồi tôi làm sau," khi ấy tôi thấy các vị Thần đều ḥa hơi thở như lúc ngồi thiền, tôi liền làm theo. Có một vị cõng tôi lên, các vị khác xách tay tôi bay bổng lên mây hướng về phía Tây Nam lướt tới có 6 vị đi trước, 6 vị ở giữa với tôi và 6 vị đi sau trải qua mấy lớp mây rồi ra khỏi đáp xuống. Lúc ấy tôi nghe chư Thần nói đă tới ranh giới Mã-Lai tôi nhìn xuống cũng có thấy nhà cửa cây cối, ruộng vườn, kẻ qua người lại, bay một lúc nữa thì thấy biển mênh mông, những cù lao rải rác đó đây, lô nhô dưới biển tàu bè xuôi ngược, đèn đuốc lập loè, vì trời đã tối
    Bay một đỗi xa hơn, không còn thấy chi nữa, chỉ toàn là biển mênh mông, mây nước một màu, bầu trời đen thẳm thật lạnh lùng khiếp sợ. Bay một lúc lâu tuyết xuống đầy đặc cả mình lạnh buốt, tay chân tê cứng chịu không nổi, nên buông tay nhào xuống biển. Khi đó chư thần vớt tôi lên đem vào đền vua, được biết đây là Long Vương. Tôi nghe Long Vương hỏi: "Chư Thần bắt hồn chúng sanh ở cõi Diêm Phù sao không bỏ vào hồ lô mà để hồn ở ngoài như vậy, đi qua biển lạnh chịu sao nổi."
    Lúc ấy chư Thần trả lời sao tôi nghe không rõ. Kế đó Long Vương bảo một vị rồng bề ngang độ chừng 3 thước, bề dài hơn trăm thước và tôi cùng 18 vị thần lên lưng ngồị Xong xuôi rồng bay tới chân núi dừng lại, các thần cõng tôi bay xuống. Ngọn núi to lớn vô cùng, xa xa là bể cả, được biết đây là núi Thiết Vị. Khí trời ở đây lạnh lắm, sương sa tuyết đổ, trên chót núi tuyết đóng trắng phau. Cảnh trời u ám. Có một điều lạ là khi tôi đến biển thì trời đă tối mà khi đến ngọn núi này lại thấy cảnh mờ mờ.
    Chư Thần cõng tôi bay vòng quanh núi, đến một cửa đá rất lớn, thần gõ 3 tiếng thì cửa đá mở ra. Thần hỏi: "Sư nữ có sao không ?". Tôi đáp:"Thưa ngài tôi lạnh lắm chịu không nổi." Có một vị thần lấy ra cái y ở trong tay áo đưa cho tôi đắp. Các ngài cùng tôi vào trong núi thì nghe các vị thần nói: "Bồ Tát đến rồi". Vào trong núi thấy hào quang sáng rực một vùng đất rộng lớn bao la ở đây nghe ấm áp hơn bên ngoài. Nhìn vào trong thấy đền đài nguy nga to lớn, trước đề hai cái tháp cao, có hai vị Bồ Tát đang ngồi ngang nhau. Hào quang tua tủa đổ hột. Tưởng mình được về Tây Phương, lòng mừng phấn khởi, định chạy đến chỗ Bồ Tát ngồi mà lạy.

    (còn tiếp)
     
  11. hanoixuan

    hanoixuan Thành viên sắp chính thức

    Tham gia:
    25/1/2009
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    107
    Điểm thành tích:
    33
    hongroda, debuiEnCon thích.
  12. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    debuihanoixuan thích.
  13. hanoixuan

    hanoixuan Thành viên sắp chính thức

    Tham gia:
    25/1/2009
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    107
    Điểm thành tích:
    33
    chuyện địa ngục (tiếp theo)

    QUẢ BÁO
    Phía ngoài hai vị Bồ Tát ngồi, sau lại có một đàn gà, vịt rất đông, còn phía trong là đền rồng của vua Nhứt Điện, vì thấy Bồ Tát tôi quá mừng mà không thấy đàn gà, vịt chận ḿnh phía trước, mỗi con lớn bằng con nghé, tôi vừa đi tới nghe chúng nó nói: "Dữ hôn, chúng tôi đợi nhà ngươi từ tháng 10 năm Sửu đến tháng 4 năm Dần mới gặp. Chúng tôi được nghe Nhứt Điện Tần Quảng Vương nói nhà ngươi đã qui đầu Phật pháp mà tu hành. Nhưng trước kia nhà ngươi ỷ mạnh sát hại chúng tôi, nào cắt cổ, nhổ lông, phân thây, xé thịt để đem lại sự giàu có cho mình mà chẳng chút xót thương đến loài sinh vật yếu đuối ngu khờ nàỵ Ngày nay nhà ngươi xuống đây, chúng tôi phải phân thây trả hận". Nói đến đó, chúng nó ào lại vây quanh, con thì mổ con thì đá, lớp gà, lớp vịt mổ bươi cào cấu tôi đau đớn vô cùng.
    Không chịu nổi nữa, liền té quị xuống, chúng nó leo lên mình nó chà, nó đạp, bươi, mổ xé, cắn nên tôi ngất đi nhưng lạ lùng thay, tôi còn nghe văng vẳng tiếng Bồ Tát Quan Âm nói: "Này các con vật kia, hãy ngưng lại mà nghe ta nói hai điều. Điều thứ nhứt, là các người tự do trả hận, nhưng tất cả đều phải đứng qua một bên, con này mổ rồi đứng qua bên kia, tới con khác mổ, như vậy mới công bình. Số các ngươi là một ngàn mười một con, mà một con cứ mổ hoài, còn con khác không mổ được rồi cứ kiện thưa mãi ai ở đây mà phân sử cho nổi.
    Trả thù xong rồi, tùy theo nghiệp lực của các ngươi mà đi đầu thai, con nào còn kiếp thú thì làm thú, con nào măn kiếp được tiến lên làm người, đó là điều thứ nhất. Còn điều thứ hai là các ngươi không trả hận, để ta cứu nó sống dậy, nó sẽ tụng kinh cầu siêu cho các ngươi tiến lên làm người hết, sau này nó sẽ làm thầy của các ngươi mà độ các ngươi tu hành. Trong hai điều, các ngươi muốn điều nào tùy ý, chớ luật công không ép".
    Bồ Tát nói đến đó thì chúng nó dang ra xa và không mổ nửa. Bồ Tát bảo tiếp: "Các ngươi cứ từ từ mà trả hận đi". Các con vật trả lời: "Bây giờ tôi muốn tên này tỉnh dậy để cầu siêu cho chúng tôi được làm người, chớ mang lớp thú hoài, khổ quá!". Bồ Tát bèn sai vị thần đem nước rưới vào mình, tôi liền tỉnh dậy.
    Nhớ lại mình đă cắt cổ gà, vịt quá nhiều ḷòng hết sức ăn năn, tôi bước tới trước mặt Bồ Tát mà lạy. Bồ Tát Quan Âm dạy rằng: "Nhờ ngươi thức tỉnh tu hành, thọ trì kinh pháp trong 6 năm và cũng may là các con vật này nó họp lại đây để kiện người, xin trả thù có một lần. Bằng không, tự nhiên sau này ngươi phải đầu thai làm thú trong một ngàn mười một kiếp để thường mạng, thì biết bao giờ mới trở lại làm người mà tu hành. Chúng sanh mê muội, không rõ luật nhân quả, cứ tưởng chết rồi là hết, cho rằng: "Vật phải dưỡng nhân" rồi mạnh tay sát hại, chừng khi quả báo đến thì kêu trời, kêu đất, ai cứu được.
    Nhà ngươi có biết các con vật ấy là gì của ngươi không?". Tôi đáp: "Bạch Bồ Tát, con chỉ biết nó là con vật thôi". Bồ Tát nói: "Nó là ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc của ngươi trong nhiều đời, nhiều kiếp. Trước kia nó cũng sát sanh như ngươi nên phải hóa làm thú, nay ngươi nhìn chẳng ra nên đành tâm sát hại chúng. Ngày nay ông bà cha mẹ của ngươi lại kiện cáo ngươi để trả thù, thế gian là trả trả vay vay như vậy đó. Chúng sanh cõi Diêm Phù ưa sát hại sinh vật cho cha mẹ, chồng con ăn bổ dưỡng thân thể, hoặc bắt cá, cua để nuôi con cháu. Vì thương mà hại đó là mình hại mình, hại luôn cả cha mẹ, thân quyến đều phải chịu tội chung. Bây giờ ngươi hăy tụng kinh cầu siêu cho chúng nó được tiến lên làm người, giảng cho chúng nó nghe một bài, khuyên chúng nó rán niệm Phật và qui y Phật, Pháp, Tăng cho chúng nó."

    CẦU SIÊU
    Khi đó, tôi bạch rằng: "Con phải tụng kinh chi để cầu siêu cho chúng nó tiến lên làm người". Bồ Tát dạy: "Ngươi phải tụng kinh Đại Bi và chú, đủ một ngàn mười một biến." Nghe như vậy, tôi bèn đứng lên chắp tay tán Dương Chí tụng Đại Bi Thập Chú. Trong khi ấy các vị chư Thần cùng các vị quỷ sứ họp chung để tụng, nhờ thế mới mau đủ số chớ để một mình tôi tụng thì có lẽ trên cõi Diêm Phù con tôi đă chôn xác tôi rồi.
    Trong lúc tôi tụng thì các con thú tiến lần ra ngoài, đến sông Ứ nê mà đợi đó, các chư thần múc nước cho chúng nó uống đặng đi đầu thai. Sông này có 3 dòng, dòng trong để cho linh hồn nào hiền đức uống, sau này sẽ được thông minh sáng suốt. Dòng đục cho người hung ác, hoặc thú mới tiến lên làm người thì sau này bị u mê đần độn. Dòng đỏ dành cho người đại ác, uống vào thì hóa thành thú đi đầu thai để trả nghiệp. Chư Thần cho chúng nó uống một chung đầu thì rụng hết lông, chung thứ hai thì hoá làm người, chung thứ ba thì tay chân mọc ra. Liền đó tôi giảng cho chúng nghe một bài. Ở đây, xin nói lược: "Này các người trước kia các người vì ác quấy mà phải chịu làm kiếp thú, nay được tiến thoái, tùy ác hay thiện mà các người tiến lên làm Trời, làm người hay phải đọa làm thú, hoặc đày xuống địa ngục chịu hành h́nh, đều do thiện ác của các ngươi tạo ra mà lănh lấy hậu quả.
    Khi đầu thai, các người phải ở trong bụng đàn bà chẳng khác nào ở trong ngục tối, đến khi ra thai phải ra cửa sản môn như chen qua hai viên đá cứng rắn, đau đớn vô cùng. Sanh ra rồi chỉ nằm lăn lóc đó mà nhờ sự sống của ông bà cha mẹ đem lại. Lúc lớn lên đôi mươi tuổi lập gia đình, sanh con đẻ cháu. Có phước thì sống trong cảnh giàu sang nhung lụa, vô phước thì sống trong cảnh cơ hàn đói rét, thiếu trước hụt sau nhọc ấy. Khi đi đầu thai các ngươi chỉ đem cái nghiệp thức nầy thọ sanh, khi chết các người cũng chỉ trở về cái nghiệp thức còn bao nhiêu sự nghiệp: nhà cửa, ruộng vườn tiền tài, địa vị, thế quyền danh vọng thì ôi thôi đều tan theo mây khói. Nhưng các người biết tu hành, tạo duyên lành theo Phật, Pháp đó là phước báu của các người hưởng muôn thưở, hoặc các người gây ác nghiệp thì chính tự mình tạo xiềng xích trói buộc muôn đời.
    Hôm nay, tôi khuyên các người hăy nhớ niệm Phật, các người niệm theo tôi:
    Nam mô A Di Đà Phật.
    Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Nam mô Cứu khổ Cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.
    Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát."
    Hễ tôi niệm vị Phật nào thì chúng cũng niệm theo vị Phật ấỵ Tôi bèn nói tiếp: "Niệm Phật tức là gieo thiện căn trong Phật, Pháp, niệm Phật tức là gieo hạt giống Bồ Đề, các người hăy nhớ niệm Phật". Tôi bèn qui y Phật, Pháp, Tăng cho chúng nó, xong rồi chư Thần thổi cho các vong biến nhỏ lại, thâu vô hồ lô đưa đi đầu thai, trong đêm 23 rạng 24 tháng 4 năm Dần, tính đến nay chúng cũng được 6,7 tuổi rồi .

    KẾT ÁN
    Xong rồi, tôi trở vào đến ngay Bồ Tát lạy nghe Ngài phán rằng: "Ngươi tạo tội ác tày trời, nay dám nguyện trả xong trong một kiếp, có chịu nổi không?". "Bạch con chịu nổi". Bồ Tát nói: "Vậy thì vào Nhứt Điện Tần Quảng Vương mà lănh án". Đến Nhứt Điện tôi quì xuống nghe Ngài phán án: "Tội lỗi của ngươi rất lớn, nay ngươi nguyện trả xong trong một kiếp thì cứ khai đi". Tôi bèn khai: "Bạch Diêm chúa, con sát sanh vì con giết vật rất nhiều, tội cắp vì mua bán gian xảo, tội tà dâm vì có bảy đời chồng, tội nói láo vì con nói láo hơn ai hết đă vậy mà còn uống rượu nữa". Nói đến đâu thì có vị phán quan giở sổ xem đến đó, kế Diêm chúa quở: "Còn tội bán đồ lậu chợ đen sao không khai, mua một bán mười làm cho kẻ nghèo không đủ tiền mua, tội ấy như tội ăn cướp lòng độc như rắn, muốn đầy túi mình chẳng biết thương hại ai". Tôi nói: "Bạch ngài, tôi xin chịu tội".
    Nhất Điện bèn phán án: "Tội sát sanh rất nặng theo lẽ phải thường mạng, nhưng hôm nay người xuống đây cho chúng nó trả hận, và cầu siêu cho chúng nó như đă xong, song còn dư báo, nếu sau này ngươi tu hành độ chúng nó thì dứt oan gia bằng thối thất thì phải thọ sanh thường mạng.
    Nhờ lòng hiếu thảo nên nay trừ được tội gian tham và tội bán đồ lậu. Hàng ngày niệm Phật rất nhiều nên trừ được tội nói láọ còn dâm dục tuy có tội mà không, vì đó là ngươi trả nghiệp. Vậy ngươi hăy lắng nghe ta nhắc lại tiền kiếp của người: "Trong sáu kiếp qua ngươi qui y theo Phật, Pháp, Tăng mà tu hành, nhưng tiếc thay, kiếp vừa qua ngươi xuất gia từ 8 tuổi cho đến 42 tuổi tu hành tinh tấn, giới hạnh thanh tịnh, độ chúng sanh cũng đông cho nên được làm Hòa Thượng, trụ trì chùa Tổ Đình vùng Phú Thọ Chợ Lớn. Nhờ công đức năm kiếp trước cho nên kiếp thứ sáu vừa qua được thông minh sáng suốt, tinh thông kinh luật luận, nên được bá tánh sùng bái, các vị Tăng Ni mến phục.
    Vì học giỏi được người kính nể, ngươi sanh cống cao ngạo mạn tưởng mình là Phật, lấy làm tự đắc buông lung, không kềm tâm thúc ư, để tâm ư rong ruổi theo trần cảnh, giới luật buông xuôi, tâm đạo giải đăi, lòng phàm bừng dậy, đắm sắc tham tài, mới phá giới, phạm trai mà tư dâm với cô gái 20 tuổi ở gần chùa. Lấy của thường trụ mà nuôi gái tơ, dụng của Tam Bảo để mua chuộc ái tình cho đến 70 tuổi mới chết. Khi chết xuống đây phải ở địa ngục thứ chín trong 28 năm để đền tội lỗi, từ 42 tuổi đến 70 tuổi. Vì lẽ trên nên 7 đời chồng của ngươi trong kiếp này là 7 người đệ tử ruột của ngươi đi đ̣i nợ trong kiếp vừa qua đă cung phụng cho ngươi đủ thức ngon vật lạ. Theo lẽ kiếp này ngươi phải làm gái lầu xanh mà trả nợ bá gia. Nhờ ngươi sớm thức tỉnh tu hành, hồi 17 tuổi có qui y với Đại Đức Thích Hoằng Nghĩa. Ngài dạy ngươi niệm Phật và tụng chú Đại Bi. Nhờ thế mà qua khỏi nghiệp ở lầu xanh, nhưng phải chịu nghèo khổ buôn bán tảo tần để trả nợ.

    CHỊU QUẢ BÁO
    Nhứt Điện Tần Quảng vương phán tiếp: "Ngươi hăy nghe cho rõ lời trẫm phán : Trong lúc làm Hòa Thượng mà còn đắm sắc đàn bà nên lănh tội đui. Đă là hàng Đại Đức trụ trì ngôi Tam Bảo mà đêm đêm sang nhà gái ăn thịt uống rượu mà miệng còn thốt câu: "Vật dưỡng nhơn", không làm gương cho người thế, còn xúi người làm ác nên lănh tội câm. Đă xuất gia đầu Phật còn thích nghe tiếng nỉ non êm ả của đàn bà con gái nên lănh tội điếc, nhưng ngươi biết sớm ăn năng tu hành theo Phật và cũng nhờ lời đại nguyện của ngươi xin trả nghiệp trong một kiếp. Thôi hăy lănh án mà trở về dương thế làm gương cho người đời, nếu biết ăn năn cố gắng tu hành khi xuống đây sẽ định lại". Tôi nói: "Bạch Diêm Chúa, tội câm và điếc con xin lănh c̣n tội đui xin Ngài khoan hồng cho tôi". Nhứt Điện phán: "Vì nghiệp lực của ngươi trẫm không thể nào tha được, ngươi hăy đến Bồ Tát mà xin".
    Nghe lời Ngài tôi bèn đến lạy Bồ Tát Quan Âm. Ngài hỏi: "Ngươi muốn sáng mắt để làm ǵ?". "Bạch Bồ Tát, con thấy chúng sanh nơi địa ngục quá khổ sở nên xin được sáng mắt để tụng kinh Pháp Hoa cầu nguyện cho chúng sanh mau sớm siêu rỗi". Đức Địa Tạng nói: "Nếu có lời đại nguyện phải đốt tâm". Liền đó có một vị Thần bưng cái ô như ô trầu đến quỳ trước Bồ Tát Quan Âm, vị khác đến gắp một cục lửa đem đưa tôi bảo nuốt. Thấy lửa thì sợ nhưng không dám căi, cứ nhắm mắt, há miệng, cục lửa vừa bỏ vào miệng tôi nghe nó chạy tuốt xuống bụng, liền từ đầu đến chân phát ra lửa ngọn, cả cơ thể tôi rung động thật kinh sợ vô cùng. Khi ấy tôi hối hận nghĩ rằng: "Phải dè đừng xin, vì xin khỏi đui mà chắc chết". Vừa nghĩ thế, vị Thần gắp cục lửa thứ hai cho tôi nuốt, lửa cũng bốt lên dữ dội và đến cục thứ ba cũng thế. Làm cho tâm thần tôi tán loạn ngồi không muốn vững. Nghe Bồ Tát bảo: "Nghỉ một chút." Tâm trí tôi lúc đó hoang mang, tay chân rụng rời vị Thần đứng kế bảo: "Ngài rán tỉnh tâm niệm Phật chớ còn nữa". Tôi nghe như vậy định thế nào cũng chết, vì mình người đại ác nên phải trả nghiệp thời đành chịu vậy.
    Vừa nghĩ đến đó kế vị Thần gắp cục lửa bảo tôi nuốt nữa, nhưng lạ thay, tới cục thứ tư này nghe trong ḿnh không sao hết , tôi nuốt như mình ăn cơm vậy, dầu có nuốt bao nhiêu tôi cũng không sợ. Ban đầu còn đếm, một lúc không biết đă nuốt bao nhiêu. Chợt nghe Bồ Tát bảo: "Thôi cho ngươi an tọa". Tôi liền trở lại chỗ ngồi, lạ một điều là chỗ tôi ngồi khi đi thì ghế mất. Khi ngồi thì ghế lại hiện ra. Ngồi xong có một vị Thần ở phía sau bưng hộp ra quì trước Bồ Tát Quan Âm. Bồ Tát Quan Âm xem và nói: "Tham, sân, si của ngươi hăy còn , ba cục đen là chỉ lòng tham, sân, si của ngươi đấy! Còn cục đỏ này là chỉ ngươi sẽ sanh lên cõi trời, 36 cục trắng kia chỉ lòng trong sạch của ngươi. Vì ngươi quá sợ tội nên quyết chí tu hành, lòng trần không còn nghĩ đến. Như vậy cũng tốt, nhưng phải tinh tấn tu hành cho 3 cục đen này hóa trắng thì ngươi mới hoàn toàn trong sạch, và vì lời Đạo Nguyện nên phải khám phá Địa Ngục". Lúc ấy tôi ngẩn ngơ không biết phá địa ngục bằng cách nào. Nghe chư Thần nói: "Ngài hăy dùng gươm Trí Huệ mà phá". Tôi bèn suy nghĩ bây giờ cứ cố gắng niệm Phật, liền đến lănh ấn nơi Nhất Điện cùng các chư Thần đi khám phá Địa Ngục.

    (còn tiếp)
     
    melinh97, EnCondebui thích.
  14. debui

    debui Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    29/5/2007
    Bài viết:
    1,029
    Đã được thích:
    184
    Điểm thành tích:
    103
    Em cảm ơn chị hanoixuan nhieu lắm . Mong đọc được nhiều bài của chị trong topic này.
     
    hanoixuan thích bài này.
  15. hanoixuan

    hanoixuan Thành viên sắp chính thức

    Tham gia:
    25/1/2009
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    107
    Điểm thành tích:
    33
    truyện địa ngục (tiếp theo)

    @debui: cảm ơn bạn đã động viên nhé (u)
    ____________

    NGỤC THỨ NHẤT

    Khi đó hai vị quan đi trước dẫn đường, 2 quỉ sứ cùng 18 vị Thần vào địa ngục. Trong ngục thứ nhất không có sự hành phạt, chỉ gồm có 4 số người:
    1. Số công
    2. Số oan
    3. Số ưng
    4. Số phạt
    Số công là măn số rồi chết và cũng không tạo nghiệp sát nhơn. Số oan là kiếp trước không giết người, nhưng kiếp này bị người giết. Số ưng là vì kiếp trước giết người, nên kiếp này bị người giết lại để trả nghiệp. Còn số phạt là khi chết oan mà không chịu theo chư thần xuống địa ngục, cứ măi lẫn trốn ở cơi Diêm Phù tìm người trả hận, hay phá quấy người, bận cho chư Thần phải quan sát, nay bị bắt xuống đây để nhờ xử phạt. Đó là địa ngục thứ nhất.


    NGỤC THỨ HAI

    Trong ngục thứ hai cũng có bốn số người như ở ngục thứ nhất, nhưng khi còn ở ngục thứ nhất là đợi xử án, khi xử án rồi qua ngục thứ hai để chờ lănh án mà đi, hoặc được lên làm người, hoặc vào địa ngục khác mà chịu tội, hoặc qua cảnh nhơn tiền tu thêm. Có một vị quan đi theo nói: "Nếu vong nào có lòng hỉ xả, trước kia mình không giết ai, nay bị người giết, sự chết sống ở cơi đời là giả dối, nay không hận thù, dù vong ấy có tạo tội cũng được ân xá qua cảnh nhơn hiền tu thêm, chỉ có tội ngũ nghịch là không trừ được.
    Còn vong nào cứ xin đi trả thù thì Nhứt Điện Tần Quảng Vương cho quỉ sứ dẫn vào ngục ngay không xét xử, nếu chúng sanh cứ măi gây thù kết oán thì cõi ta bà biết ngày nào dứt được chiến tranh. Đáng thương xót chúng sanh bị giam cầm nơi địa ngục là những vong hồn cứ măi hận thù.


    NGỤC THỨ BA

    Trong ngục thứ ba có một số người rất đông sau thời gian bị hành phạt ở các địa ngục tùy theo tội ác của họ, nay chờ xét lại rồi lănh án để sanh làm người hay qua cõi nhân hiền tu thêm. Số người này lo đập gạo nấu cơm (vì hạt gạo ở đây như trái dừa khô ở dương thế). Nấu xong đem phát cho các vong ở các địa ngục ăn. Mỗi địa ngục rất lớn ước bằng châu thành Mỹ Tho vậy, đó là đại địa ngục. Trong một đại địa ngục chia ra làm 16 tiểu địa ngục. Mỗi địa ngục các vong hồn nhiều vô số, ngồi có hàng có lớp, gục tới, gục lui thật là sầu khổ.
    Qua ba ngục trên tôi đều khuyên các vong niệm Phật. Tôi nói: "Tôi coi các vong ở địa ngục nầy như bà con, cô bác của tôi vậy. Cô bác hăy niệm Phật, có niệm Phật tội mới được tiêu trừ, tôi bèn niệm:
    -Nam mô A Di Đà Phật
    -Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    -Nam mô tầm thinh cứu khổ cho tất cả chúng sanh nơi địa ngục nầy Quan Thế Âm Bồ Tát.
    -Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát."
    Nhờ lời khuyên của tôi mà các vong hồn niệm theo, hễ vong nào chí tâm niệm Phật thì ra khỏi địa ngục ngay, còn vong nào cứng cỏi hay vì nghiệp chướng quá nặng nề mê muội không niệm được thì vẫn ở trong địa ngục. Nhờ thế mà trong 3 ngục đầu các vong được ra rất nhiều.


    NGỤC THỨ TƯ

    Trong ngục thứ tư hành phạt những người hủy hoại cơm gạo, đồ ăn uống phải chịu tội, chẳng hạn kẻ ăn nhiều người ăn ít. Có người một diệm, kẻ một khạp, một lu lớn, cho đến kẻ ăn nhiều không kể xiết, ước nhiều như chợ Mỹ Tho vậỵ Được biết tội nhân khi ăn hết rồi, nếu còn tội khác phải đến địa ngục khác chịu tội, như hết thì đi đầu thai chịu quả báo xấu xa bần cùng khổ sở.
    Một số đông người vì tội nấu rượu, không biết bao nhiêu là lu, người một lu, kẻ hai lu, đến 5,6,7 lu để dài dài ước chừng là 3 cây số, hàng ngàn , hàng trăm chớ không phải đôi ba, được biết khi uống hết rượu trong lu, nếu còn tội khác thì đến ngục khác chịu hành phạt nữa, còn như hết tội được đi đầu thai làm thú hay làm người ngu dốt chẳng hạn tùy theo nghiệp.
    Tôi thấy như vậy lòng chua xót vô cùng bèn khuyên các vong niệm Phật, hễ ai nghe lời niệm Phật theo tôi thì tự nhiên gạo trong khạp tiêu mất, rượu trong lu vơi cạn, vì thấy sự mầu nhiệm như thế nên nhóm này niệm truyền đến nhóm khác. Tôi cũng bươn bă đi khắp các nơi, vừa đi vừa niệm Phật và khuyên các vong hồn niệm Phật. Nhờ thế cửa ngục thứ tư nầy ra khỏi một số rất đông.

    NGỤC THỨ NĂM
    Khi vào ngục thứ năm. Ôi! vô số người mang gông tra cùm, do vì tội phao phản thêm bớt, nói gian dối làm người phải bị tù đày, mang gông đi không nổi, bị quỉ sứ ở sau đánh tới, cứ một bước bị đánh một cái, đến bước không nỗi, té xuống thì bị đánh liên tu bất tận đến chết đi sống lại, cũng có một số bị nhốt vào lồng sắt vì lúc còn sống bắt thú nhốt vào lồng để chơi cho vui thích, tôi cũng khuyên bà con niệm Phật, hễ ai niệm theo tôi, thì gông cùm tan ră lồng sắt vỡ ra. Đây tôi chỉ nói sơ lược ở ngục thứ năm.


    NGỤC THỨ SÁU

    Vào ngục thứ sáu, được nghe tội báo ở đây là do sát sanh hại mạng để ăn uống như: trâu, bò, heo, chó, gà, vịt, và rắn, rùa v.v... Số nào giết trâu, bò, ngựa, chó thì vít lên núi lửa, giữa núi lửa có một cột đồng rất lớn, lửa cháy hừng hực. Số nào chỉ ăn mà không giết thì vít ở ngoài cột đồn, còn số nào vừa ăn vừa giết thì vít ngay lên cột đồng, lửa cháy xèo xèo, mùi hôi khét xông lên. Ở đây cũng có một số người bất hiếu, chửi cha mắng mẹ hoặc bỏ cha mẹ bơ vơ khổ sở, cũng bị hành phạt như vậy. Thật khó mà khuyên họ niệm Phật vì nghiệp lực quá nặng, chỉ có một số ở ngoài còn khuyên niệm Phật được. Hễ số nào niệm Phật thì ngưng hành hình, còn không niệm thì quỉ sứ cứ tiếp tục hành phạt măi.
    Đi một đỗi nữa gặp một số người rất đông. Số thì giữ gà vịt, số thì giữ heo bò, dê ngựa v.v... Tôi lấy làm lạ mà nói: "Ủa! Ở địa ngục cũng có nuôi heo gà, bò dê nữa hay sao ?” Có vị quan đi theo trả lời: "Không phải, đây lànhững chúng sanh, khi còn sống nuôi bò, dê, heo, gà vịt để sanh lợi chớ không sát sanh. Chúng phải ở đây mà giữ số thú này, chừng nào số thú này măn kiếp thú thì chúng mới được đi đầu thai. Đó là chưa kể những tội khác, còn phải đến các địa ngục kia mà chịu tội nữa".
    Lại có một số người hay đi nghe những chỗ hát ca tình tứ khêu động tính dục làm cho người say mê điên đảo, bị quỉ sứ bắt hát lại cho các người giữ thú xem. Nếu hát được thì thôi, bằng hát không được thì quỉ sứ đập tơi bời. Có vị quan đi theo nói: "Những chúng sanh nầy khi còn sống được giàu sang rồi ăn sài lăng phí, phải chi chúng nó dùng tiền để bố thí cho người nghèo đói, hoặc in kinh, tạc tượng Phật, hoặc cúng chùa hộ quí Tăng Ni tu học thì quí báu biết bao! Lúc chết được sanh về cõi trời hưởng phước tu thêm đặng về cảnh Niết Bàn, chớ có đâu mê muội xài phí đồng tiền vô ích mà nay phải vào địa ngục".
    Đi một đỗi nữa đến cầu Nại Hà bắc ngang qua một cái hầm rộng lớn ước chừng năm mẫu đất, cầu thì nhỏ tròn như cây cau, ở dưới đủ các loại thú vật có từng đoàn, đoạn đầu thì bầy trâu bò, bầy ngựa, bầy voi, bầy cọp, bầy rắn, kế đến thì bầy gà, vịt, heo, dê đủ loại, sau cùng là bầy chó, nếu ai giết thú nào, khi đi qua cầu ngang qua bầy thú ấy do nghiệp lực tạo ác của ḿnh mà phải té nhào xuống hố, mặc tình cho chúng nó giày bừa, đá đạp. Hễ giết voi thì voi giậm, giết chó thì chó xé, giết heo thì heo ủi, giết gà thì gà mổ, giết rắn thì rắn quấn v.v...
    Cho đến thân thể nát nhừ hôi thúi rồi đi thường mạng, những người nào không sát sanh hại vật thì đi qua cầu được bình an. Tôi qua cầu cũng được an, vì nhờ đă cầu siêu cho đám gà vịt rồi, khi đó có một con chó chạy theo tôi, cái thân thì người ta mà đầu chó, thấy nó tôi phát run. Nó kêu: "Cô ba, tôi là chó nô đây, cô quên tôi sao ? ". Tôi nói: "Ủa nô mầy chết lâu rồi sao còn ở đâỷ". Nó nói: "Tôi kiếp trước là đệ tử của thầy Giác Tân, vì lòng tham lấy của Tam Bảo, nên phải làm kiếp chó để giữ chùa, kiếp tôi chưa mãn, bị một người thuốc tôi chết , tôi quyết chờ nó xuống đây, trả hận". Tôi bèn khuyên: "Thôi mày xin đi đầu thai đi, thù oán làm gì cho khổ, chẳng lẽ mày đợi măi sao ?". Miệng nói mà chân đi riết.
    Ra khỏi ngục, gặp Lục Biện, Ngài nói: "Ngươi thấy chưa, chúng nó vì tội sát sanh hại mạng mà khổ sở như vậy, khi về cõi Diêm Phù, rán khuyên người đừng sát sanh hại vật và cũng đừng đốt giấy tiền, vì chỉ có tội chứ không có phước". Sơ lược như vậy.

    NGỤC THỨ BẢY

    Khi đến Thất Điện tôi nghe vua Thất Điện dạy rằng: "Sư nữ của các người, oai thần đă giảm, nếu vào ngục có xỉu thì nên đưa ra cấp tốc, kẻo nhiễm khí độc". Bước vào ngục, tôi thấy tội nhân bị quỉ sứ móc mắt, bẻ răng, cắt lỗ tai, xẻo lỗ mũi, cắt lưỡi, số người rất đông tôi cũng còn vững tin thần, đến chừng thấy người cậu (cậu chết tháng 2, tôi chết tháng 4) bị bẻ răng, móc ruột, máu ra lai láng, tôi xỉu luôn, chư Thần liền đưa tôi ra.


    NÓI CHUYỆN VỚI CẬU

    Khi tỉnh lại, tôi liền xin với Thất Điện cho tôi tiếp tục đi xem ngục thứ bảỵ Ngài nói: "Không đặng vì oai thần của ngươi đă giảm hăy về tu thêm". Tôi nói: "Tôi có người cậu chết hôm tháng hai, đang chịu tội trong ngục, xin Ngài cho tôi trở vào thăm". Ngài nói: "Không được, để tôi cho quỉ sứ dẫn cậu ra". Quỉ sứ đưa cậu ra, tôi hỏi: "Hồi đó cậu nói với tôi cậu tụng kinh Pháp Hoa 40 năm, sao nay cậu còn bị đọa vào địa ngục". Cậu tôi trả lời: "Vì cậu nói láo nên nay mới bị hành phạt như vầỵ Cậu còn cái tội khinh rẻ người đời, lại thêm hốt thuốc cắt cổ nữa. Vậy con về nói với thằng Khanh, thằng Chính con của cậu, phải bán hết gia sản làm chay, bố thí, phóng sanh hoặc ấn tống kinh cúng chùa mà cầu siêu cho cậu, vì của ấy là mồ hôi nước mắt của người đời, cậu bóc lột của họ nhiều quá". Tôi nói: "Thôi cậu hăy rán niệm Phật, khi trở về dương thế, tôi sẽ tụng kinh mà cầu siêu cho cậu, chớ con cậu dễ gì tin theo lời tôi nói". Lúc ấy Thất Điện có phán: "Chúng sanh ở cơi Diêm Phù thật quá mê muội, tưởng chết rồi là hết, nên thẳng tay tạo điều ác nghiệp, đến khi chết xuống địa ngục ăn năn đă muộn. Khi về cơi Diêm Phù; Trẫm có đôi lời nhắn nhủ với chúng sanh, mỗi ngày phải rán tu một giờ, hay nửa giờ hoặc niệm Phật tụng kinh trì chú. Ngươi cũng khuyên chúng sanh đừng đốt giấy tiền mà cầu siêu cho ông bà. Nếu vậy Nhứt Điện Tần Quảng Vương đi ăn hối lộ của người thế hay sao? Muốn cho ông bà cha mẹ được siêu rỗi, phải bố thí cho kẻ nghèo đói, cúng chùa hộ Tăng Ni tu học, in kinh ấn tống, mua vật phóng sanh mà cầu siêu thì cha mẹ ông bà có chết bao nhiêu năm cũng được siêu độ". Đến đây tôi xin kiếu Ngài để trở lại Nhất Điện.


    TRỞ VỀ NHỨT ĐIỆN

    Khi trở về đến Nhất Điện, Ngài phán: "Ngươi khám phá địa ngục, thấy sự trừng trị có công bình hay không?". Tôi đáp: "Bạch Ngài, sự hành phạt rất công bình, nhưng chúng sanh tạo ác lúc nào không biết, nay thấy chúng sanh bị hành phạt khổ sở, lòng cũng quá xót thương". Ngài nói: "Chúng sanh khi còn sống chỉ lo cung phụng cái xác giả tạm mà gây bao tội ác: nào sát hại sinh vật, nào cướp của giết người, lòng tham không đáy, muốn ngồi không mà hốt của thiên hạ để cho gia đình, thân tộc bè bạn vui say, cuối cùng thần thức phải rơi vào địa ngục".
    Nhứt Diện phán tiếp: "Thay vì nhà ngươi phải lănh tội đui, câm, điếc mà trở lại cơi Diêm Phù trong 10 năm, nhưng nhờ công phá 7 cửa ngục mà chúng sanh được siêu độ rất nhiều, nên giảm được tội đui, chỉ còn lănh tội câm và điếc trong vòng 3 năm rồi xuống đây sẽ định lại. Nếu tinh tấn tu hành, gia đình tu thiện, tránh sát sanh thì còn giảm nữa bằng không thì mang tật suốt đời".
    Kế đến Ngài phán: "Nhà ngươi nhận tội ăn năn cải sửa, có lắm chúng sanh đến đây mà còn chối tộị Trẫm bèn cho xem kiếng chiếu tiền ảnh thấy việc làm của mình trên trần thế, lúc ấy hết phương chối căi, cũng có nhiều chúng sanh xin sống lại để đem tiền của bố thí cúng chùạ Nhưng xác thân của chúng đă ră rồi, đâu còn mà trở lại, vì một vong hồn xuất ra, quỷ sứ thâu nhỏ lại bỏ vào trong hồ lô mang xuống vua Đông Nhạc, kế giải qua Tây Nhạc, đến ngày Trẫm phân sử thì gần cả tháng lúc y thây thi đă ră, đâu còn mà trở lại. Nên Trẫm cho lên Nguyệt Cảnh Đài, nhìn về quê quán người chồng thì đă có vợ khác, hoặc vợ đă có chồng khác, của cải bị đám con phá tán, gia tài hao mất, tình nghĩa như đám mây bay, rồi gục đầu mà khóc".
    Tôi bèn nói: "Bạch Ngài, tôi có thể xem các thứ ấy đặng không?". Ngài nói: "Đứa ác còn xem được, huống chi ngươi có ác có thiện". Ngài vừa nói dứt, có vị thần đem kiếng chiếu tiền ảnh ra cho tôi xem. Thật là hay quá. Lúc nào tôi làm gì nói chuyện với ai, tính toán điều gì ... Đều hiện ra đầy đủ như ở cõi Diêm Phù ta coi hát vậỵ Kế đến Ngài bảo tôi nhắm mắt để lên Nguyệt Cảnh Đài, vừa mở mắt ra thì thấy mình đứng trên một tấm kiếng thật to lớn. Tôi đang nhìn qua ngó lại không biết phải xem như thế nào thì bỗng có một vị cốt cách như tiên, tóc đỏ, râu vàng bước tớị Tôi hỏi: "Ngài ở đâu đến đây ?". Ông ấy đáp: "Ta chẳng phải ở đây, cũng chẳng phải từ đâu đến, hễ có Ngài thì có ta". Tôi nghe nói thế cũng lặng thinh. Ông bèn dẫn tôi xem về ngôi nhà của tôi, thật là tỏ rỏ vô cùng, thấy xác tôi nằm trên ván đó, chung quanh có bà con cô bác lân cận, cũng có thằng em của tôi ở Thủ Thừa qua thăm, con tôi nó đứng gần bên xác tôi và đang nói năng điều chi đó.
    Xong rồi, người dẫn tôi xem Sài Gòn cũng thấy nhà cửa lầu đài, xe chạy, người qua kẻ lại, coi đến những đô thị trên thế giới, các đô thị này lộng lẫy nguy nga và lớn hơn ở Sài Gòn xa lắm. Tôi bèn nói: "Hay quá, thật hay quá. Xem được như vầy dù có chết hay sống cũng vui lòng." Ông tiên đáp: "Hay mà cũng chưa hay, Ngài rán tu chừng nào mà không cần đứng trên Nguyệt Cảnh Đài này mà thấy được tất cả mới là hay". Đến đây Ngài bảo tôi trở về, vì đă hết thời gian ấn định. Ngài vừa nói dứt câu thì thân tôi đứng ngay trước Nhứt Điện. Nhứt Điện bảo tôi đến lễ Bồ Tát đặng trở về cơi Diêm Phù.

    (còn tiếp)
     
    EnCondebui thích.
  16. hanoixuan

    hanoixuan Thành viên sắp chính thức

    Tham gia:
    25/1/2009
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    107
    Điểm thành tích:
    33
    chuyện địa ngục (phần cuối)

    TRỞ VỀ DƯƠNG THẾ
    Khi đến lễ Bồ Tát vừa muốn bạch thì đă câm ngay. Bồ Tát khuyên: "Khi về cõi Diêm Phù, ngươi nhớ lời đại nguyện mà tinh tấn tu hành ba năm sau xuống đây xét lại".
    Chư Thần đưa tôi trở lại cung Long Vương, được vua Long Vương cho rồng đưa tôi qua bể lạnh, nhờ hơi rồng tôi thấy ấm áp hơn bận đi. Gần đến ranh giới loài người, rồng dừng lại, tôi cùng chư Thần tạ ơn rồi bay thẳng vào nội địa Đến nhà tôi chư Thần hạ xuống. Vào nhà tôi thấy cái xác của tôi nằm ngay trên ván, không cử động chi hết, nước da xanh mét, tôi bắt rùng mình. Trước kia tuy tôi tu hành nhưng không chứng được cái hồn của mình như thế nào nay mới nhận được rõ ràng. Cái xác này là giả dối cứng đơ, xanh mét, rồi theo thời gian mà tan ră, chớ có chắc thật gì đâu. Vừa nghĩ thế thì thấy có một vị Thần trong xác tôi xuất ra, (đó là thần giữ xác điều hòa thở, bằng không thì xác bị hoại, tôi về nhập vô không được). Các vị Thần ở ngoài xô tôi nhập vào xác. Lúc còn ở ngoài xác, tôi tỉnh lắm có đau nhức chi đâu, thế mà khi vào xác, tâm hồn mê mẩn như người ngáy ngủ, tay chân tê lạnh nặng nề. Cả mình đau nhức, một lúc nghe gân cốt trong mình chuyển, hơi thở nghe điều hòa, tôi bèn mở mắt ra, thì thấy con tôi nó đứng kế bên đó. Lòng tôi buồn rười rượi tự nhiên nước mắt chảy dài, chớ không nói năng gì.
    Một lúc lâu, tôi bàng hoàng ngồi dậy, thấy bà con đứng xung quanh, tôi chỉ lắc đầu, hai hàng nước mắt cứ tuôn rơi mà miệng không nói chi được hết. Trong mình nhức mỏi, các bắp thịt cứng đờ, cổ khô hốc. Chắc con tôi cũng khổ lắm, nhưng chẳng biết nói gì hơn, chỉ lấy mắt mà nhìn. Lúc ấy đồng hồ chỉ 12 giờ ngày 24 tháng 4 năm Dần. Trọn ngày hôm đó và liên tiếp cho đến ba bốn hôm sau, tôi ăn ngủ không được lòng như còn hăi hùng khiếp sợ, hễ nhắm mắt thì thấy địa ngục hành hình.
    Con tôi nó thấy tôi khổ sở nó cầu nguyện ăn chay một tháng, để tụng kinh Địa Tạng cầu nguyện cho tôi. Sau một tháng tôi cũng chưa nói được, nó không thối chí, vẫn tiếp tục ăn chay cầu nguyện. Còn tôi hễ nhớ đến chúng sanh nơi địa ngục thì lòng đau nhói, hằng ngày tôi tụng kinh Pháp Hoa bằng mắt, bằng tâm, chớ không ra lờị Mỗi ngày tôi tụng cả cuốn hoặc 2 ngày một cuốn, do đó tôi và con tôi tụng luôn 6 tháng.


    XUỐNG ĐỊA NGỤC LẦN THỨ NHÌ
    Đến ngày 12 tháng 10 cũng năm Dần, chư Thần xuống rước tôi xuống âm phủ, chư Thần cõng tôi qua địa phận loài người thì có rồng chờ sẵn mà đưa ngay vào địa ngục. Hai vị Bồ Tát đă đến lúc nào không biết, thấy hai vị Bồ Tát tôi bèn đến đănh lễ. Bồ Tát Quan Âm phán: "Quí thay, nhà ngươi giữ tròn lời đại nguyện, về cõi Diêm Phù thọ trì kinh Pháp Hoa cầu nguyện cho chúng sanh nơi địa ngục. Ta cho ngươi biết, oai thần kinh Pháp Hoa rất lớn, và cũng nhờ ngươi đem hết thân tâm cầu nguyện nên mỗi bộ được siêu thăng trên hai ngàn vong linh. Nhà ngươi có đứa con đại hiếu, ăn chay tụng kinh cầu nguyện cho mẹ, tội ngươi được ân xá thêm". Ngài bèn bảo vị thần đưa tôi chung nước uống và rửa mặt. Lạ thay rửa mặt xong thì tôi nói được. Bồ Tát nói tiếp: "Oai thần của ngươi đủ sức khám phá địa ngục, hăy đến Nhứt ĐiệnTần Quảng Vương mà lănh ấn".
    Tôi bèn đến Nhứt Điện làm lễ lănh ấn thì Ngài hết sức vui mừng, từ trên ngai vàng bước xuống mà phán rằng: "Trẫm rất vui mừng cho Hiền Tăng, tưởng đâu 3 năm mới trở xuống nào ngờ chỉ trong 6 tháng. Ngày nay mới biết rõ tâm Ngài vì thương xót chúng sanh nơi địa ngục không quản nhọc nhằn đem hết tâm trí thọ trì kinh Pháp Hoa để cầu siêu cho chúng, bao nhiêu công đức thọ trì khinh pháp của con Ngài, Ngài cũng nguyện hồi hướng hết cho chúng sanh, thật quí thay! Một điều nữa Trẫm muốn cho Hiền Tăng lănh phần in kinh ấn tống để hộ Tăng Ni tu học và hàng Phật tử có đủ kinh sách tu hành vậy Ngài nghĩ sao ? Tôi nói: "Bạch Ngài tôi không sợ khó nhọc, nhưng vì tiền tài không có xin Ngài hoan hỉ cho". Nói đến đó rồi thôi, Ngài bèn đóng ấn đưa cho vị quan đặng khám phá địa ngục tiếp.

    PHÁ TIẾP NGỤC THỨ BẢY
    Chư Thần cõng tôi bay thẳng đến ngục thứ bảy vì các kia tôi đă khám phá rồi, khi vào đến Thất Điện. Thất Điện Thái Sơn Vương cũng đón tiếp niềm nở rồi đóng ấn giao cho vị quan để vào địa ngục thứ bảỵ
    Trong ngục thứ bảy, có một số người rất đông vì tội gian dâm, đàn bà có chồng mà còn đi ngoại tình, đàn ông có vợ mà còn đi phá gái trinh hoặc gian dâm với vợ người thì bị cưa, cắt, xay giă, bầm quết xong lại bị vứt ra đổ đống. Những người mưu mô kế hoạch xảo trá, cho vay bạc nợ, mượn bạc nát lời, hoặc làm bạc giả, chứa bài bạc, hối lộ gian tà cũng bị hành phạt như vậy, chết rồi hườn hồn cho sống, sống lại bị hành hình cho chết, khổ không thể tả. Khi muốn sống dậy quỷ sứ cầm một cái bình nước rưới lên đống thịt liền hiện hình sống dậy rồi cũng bị chặt bầm nữa.
    Thấy vậy lòng rất xót thương nên tôi kêu: "Hỡi các vong hồn hăy rán niệm Phật", tôi cũng niệm Phật để cầu nguyện cho tất cả được siêu thoát, vậy các ngươi hăy niệm Phật đi. Vong nào nghe lời niệm Phật thì khỏi bị hành hình, còn vong nào không niệm thì quỷ sứ cứ tiếp tục hành hình đó là nói sơ lược.


    NGỤC THỨ TÁM
    Vào ngục thứ tám này không biết bao nhiêu tội nhơn bị hành hình khổ sở. Một cột đồng thật lớn bề tròn chừng sáu thước lửa đốt cháy rực. Quỉ sứ bắt tội nhơn ôm cột đồng , nếu không ôm chúng lấy chỉa ba đâm mà vít vàọ Kế là những vạc dầu sôi sắp thành có hàng rất nhiều, quỉ sứ bắt tội nhơn ném vào đấy, hoặ nắm hai chân nhúng đầu vào vạc dầu, chết rồi huờn sống lại tiếp tục hành hình. Đây là do tội mưu mô kế hoạch của kẻ loạn dâm để lấy lợi, dụ dỗ gái để đem bán ở lầu xanh, hiếp dâm đàn bà, con gái, hoặc thầy thuốc hốt thuốc giết người, phá thai để lấy tiền. Hoặc ỷ giàu có phao phản hiếp đáp người rồi đem tiền chuộc tội , hoặc xúi người kiện cáo, chia rẻ anh em hoặc chửi Trời mắng Đất khinh rẻ thánh thần v.v... Tội nhơn này lại bị ó, bù cắt , chim ưng mổ xé nó ăn còn xương chất đống rồi huờn sống dậy để chịu khổ nữa.
    Tôi cũng có khuyên các vong niệm Phật nhưng các vong ở đây vì nghiệp chướng quá nặng nề nên số người niệm được Phật rất ít, số nào niệm Phật được thì quỉ sứ để cho ngồi nghỉ không hành phạt, còn số kia thì cứ tiếp tục hành.


    NGỤC THỨ CHÍN
    Tôi cùng chư Thần vào đến Cửu Điện, Cửu Điện Độ Thị Vương ân cần tiếp rước. Ngài phán: "Trẫm nghe có người ở cơi Diêm Phù xuống phá địa ngục, từ lâu Trẫm cũng có lòng trông đợi, đến nay mới được hội kiến thật là quí báu thay!" Tôi nói: "Bạch Ngài trước kia tôi đi khám phá đến ngục thứ bảy thì trở về vì oai Thần chưa đủ ngày nay khám phá tiếp, xin Ngài hoan hỉ chỉ dạy cho". Ngài nói: "Trẫm cũng đi theo nữạ Trước kia Ngài ở ngục này 28 năm, Ngài còn nhớ hay không? Hăy vào đây nhìn xem có ai quen thuộc không?". Vừa nói vừa đi vào ngục thì hỡi ơi! Trong ngục thứ chín này toàn là quí vị tu hành một số thì quỳ trên bàn chông, vì trước kia mang lớp tu hành ỷ mình học giỏi khinh khi các vị Tăng Ni, Đại Đức giới hạnh thanh tịnh. Một số khác quỳ trước cây đèn lưu ly mà tụng kinh, vì lănh tụng kinh cho người đời mà tụng không đủ. Một số khác bị hành hình đủ cách như ở các ngục khác tùy theo tội nặng nhẹ.
    Cửu Điện Độ Thị Vương chỉ số bị phạt mà nói: "Số này mượn lốt thầy tu mà phá chúng sanh lạm dụng của thường trụ mà làm việc riêng tư phi pháp, hoặc phá giới phạm trai ở chùa mà ăn mặn, sát sanh hại vật làm gương ác cho đời, hoặc cống cao ngạo mạn khinh rẻ Tăng Ni thanh tịnh, hủy hoại của đàn na thí chủ, rẻ rúng bạch y cư sĩ. Tu mà không kính Phật lại hủy Pháp, vọng ngữ chưa được mà nói được, chưa chứng mà nói chứng, tưởng ḿnh là Phật, khinh rẻ Thánh Thần, xem thường Trời Đất cho nên ngày nay mới bị hành phạt như vậy.
    Tôi nghe như thế bèn khuyên các vong niệm Phật, tôi nói: "Kính thưa quư Ngài, tôi xem quí Ngài như thầy của tôi vậy, tôi biết quí Ngài học giỏi hơn tôi nghiều lắm, cũng vì một chút lỗi lầm chi đó mà phạm giới, vậy hôm nay quí Ngài cùng tôi niệm Phật đặng tiêu nghiệp chướng trở lại cơ Diêm Phù mà tu nữa cho đến ngày thành chánh đẳng chánh giác". Tôi khuyên như vậy đôi ba lần mà các ngài cứ gục đầu không chịu niệm Phật, cho nên Cửu Điện Ngài phán tiếp: "Các người thật mê muội, có người đến cứu mình mà mình không chịu cứu mình, nếu gọi đây là Tăng Ni bị hành phạt thì không đúng, mà phải gọi là nam và nữ mượn lớp đạo để phá đạo chớ đâu phải Tăng Ni. Tăng Ni thì giới hạnh thanh tịnh. Tăng Ni thì dắt chúng độ sanh. Tăng Ni thì phải yêu thương vạn loại, Tăng Ni thì hủy mình vì đạo pháp làm gương cho chúng sanh. Tăng Ni thì về cảnh Niết Bàn, chớ Tăng Ni nào ở địa ngục! Thôi Ngài cũng đừng khuyên nữa, chúng đă không sám hối tội lỗi lo niệm Phật thì để chúng nó ở đó mà chịu hành phạt. Trẫm có mấy đôi lời khi về cơi Diêm Phù nhắc lại lời Trẫm để chúng sanh thức tỉnh tu hành". Ngài nói xong tôi bèn kiếu từ để sang ngục thứ mười.

    NGỤC THỨ MƯỜI
    Vào ngục thứ mười toàn là ngạ quỉ cái bụng lớn như trống chầu, cái đầu tợ cái nôm, cổ lại nhỏ như cổ tay vậy. Chịu đói chịu khát, lửa dữ thường phát ra cháy thân. Nhân vì tội keo kiết, bỏn xẻn, tham lam thái quá, một năm chúng chỉ ăn được ba ngày Rằm lớn. Tôi thấy vậy quá khổ sở bèn niệm Phật.
    Nam mô A Di Đà Phật
    Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Nam mô tầm thinh cứu khổ cứu nạn cho tất cả chúng sinh nơi địa ngục thứ mười này Quan Thế Âm Bồ Tát.
    Tôi niệm như vậy không ngừng ngớt chỉ thấy chúng ngóc cổ lên dòm chớ không niệm được, vì khi chúng mở miệng thì lửa từ trong miệng phát ra cháy thân. Một vị quan nói: "Thấy chúng đau khổ thì cũng thương, nhưng khi chúng ở cõi Diêm Phù làm nhiều tội ác, nào cướp của giết người làm đủ thập ác lại còn khinh rẻ Phật, Pháp, Tăng không tin nhân quả, thấy người tu hành thì ngạo ố, thấy ai bố thí thì bỉm môi cười lại còn chửi cha, mắng mẹ, sát sanh hại vật cũng quá nhiềụ Nếu cho chúng trở lại làm người thì hại chúng sanh không sao kể xiết, để cho chúng làm ngạ quỷ ở nơi đây cả ngàn năm xong kiếp ngạ quỷ phải đầu thai làm thú cũng không biết bao nhiêu kiếp, măn kiếp thú được tiến lên làm người ngu độn tối tăm. Chúng sanh mê muội một kiếp làm ác mà ngàn kiếp phải khổ đau". Tôi thấy không sao cứu chúng được nên tôi ra khỏi ngục thứ mười.


    VÀO NÚI LỬA
    Thập Điện phán: "Nay Ngài đến ngục thứ mười mà oai thần còn đầy đủ, bây giờ phải vào núi lửa mới biết đức của Ngài cao thấp". Tôi nói: "Bạch Ngài , ở ngục thứ sáu cũng có núi lửa mà không ai bảo tôi vào, sao đến đây tôi đă phá mười ngục mà Ngài còn bắt tôi vào núi lửa ?". Thập Diện nói: "Núi lửa này để thử sức người tu, Ngài vào sẽ biết". Tôi nghĩ: "Thôi vì mình quá ác nên đành cam chịu". Tôi bèn quỳ xuống mà nguyện: "Nay con xin nguyện cùng mười phương chư Phật chứng minh cho con, nếu như con có bổn phận về cõi Diêm Phù nói chuyện âm phủ cho người nghe mà tu hành thì vào núi lửa này vẫn bình an còn như con thiếu phước đức thân này có tiêu hoại xin núi lửa cũng tắt theo để sau này không còn chúng sanh nào phải chịu khổ như con nữa".
    Nhìn vào núi lửa thấy cháy rực, cách xa độ trăm thước mà nóng bức vô cùng huống chi vào làm sao toàn vẹn thân được. Khi sắp sửa vào núi lửa thì chư thần cũng than thở bảo: "Núi lửa này nhiều người vào đă tiêu tan ra tro mạt". Tôi bèn hỏi: "Quí Ngài dám vào không?". Thần nói: "Chỉ có Phật và Bồ Tát vô được thôi chớ như chúng tôi vào cũng tiêu tan hết". Tôi nghĩ bụng "Dầu sao mình cũng phải vào".
    Tôi bèn chạy bay vô, thế lạ thay! Không thấy nóng chi hết, quá mừng tôi bèn đi qua, đi lại coi núi lửa bao lớn, khi vòng vào phía trong thì gặp ngay Đức Chuẩn Đề , tôi bèn quỳ xuống làm lễ. Ngài bèn kêu tôi và nói: "Nhà ngươi vào ngục lửa mà thân còn nguyên vẹn là nhờ sáu kiếp tu hành vừa qua chớ đâu phải tu hành trong một kiếp này mà được. Nhà ngươi có biết tại sao kiếp này nhà ngươi ngu dốt không ? Vì kiếp vừa qua ngươi xuất gia từ 8 tuổi cho đến 42 tuổi trong sạch lại học kinh, luật luận rất giỏi rồi sanh cống cao ngạo mạn giấu Pháp Đại Thừa không chịu truyền bá ra cho ai biết, chỉ để riêng mình biết để người đời sùng bái. Vì vậy kiếp này phải chịu dốt nát u mê đặng đền tội giấu Pháp của Phật. Ta hỏi ngươi, tại sao nơi Nhất Điện ngươi không lănh sứ mạng in kinh ấn tống?". Tôi nói: "Bạch Bồ Tát con không phải sợ mệt nhọc, vì không tiền tài làm sao mà dám lănh việc lớn được". Bồ Tát nói: "Không ta không cần ngươi có tài sản, nếu như ngươi giữ tròn bổn phận không tham của đời, thời ta sẽ cho chư Thần ủng hộ, nhà ngươi muốn chi được nấy, miễn vì Phật Pháp ngoài ra không đặng".
    Tôi bèn quỳ bạch: "Bạch Bồ Tát nếu được vậy thì con nguyện đời đời kiếp kiếp in kinh ấn tống ủng hộ Tăng Ni măi cho đến khi Đức Phật Di Lạc ra đời con không hề thối chuyển". Bồ Tát nói: "Lành thay! Ngươi sẽ được như nguyện". Tôi vừa ngước lên thì Ngài biến mất, nhìn lại núi lửa cũng không còn. Khi đó chư Thần hết sức mừng rỡ bay đến tán thán không cùng. Trở lại ngục thứ mười, vua Thập Điện nói: "Ngài công đức rất lớn đă khám phá mười ngục cứu thoát rất nhiều chúng sanh, nay vì một đại nguyện mà tiêu tan núi lửạ Vậy còn ngục Vô Gián Ngài phải khám phá luôn, rồi trở lại đây xem Trẫm cho hồn đi đầu thai làm thú".

    NGỤC VÔ GIÁN
    Đến đây tôi cùng chư Thần đi xuống mấy cấp thềm đến ngục Vô Gián, ngục này lớn không thể tả, rộng như biển, cao như núị Trong biển sâu rộng chúng sanh lặn hụp, máu trào theo nước cuồn cuộn sôi, vật dưới biển kỳ hình dị tướng, mỏ như sắt răng như dao, mỏng tợ gươm, rượt bắt tội nhân cào cấu xé thây, chạy lên bị quỷ lùa xuống, kêu gào thảm thiết, thấy mà táng đởm kinh hồn. Tôi rán niệm Phật nhưng họ không nghe, tôi liền kêu lên: "Các thú dưới biển hăy lắng tai nghe tôi nói đây: Vì các ngươi bấy lâu nay tạo tội nên mới làm thú ở nơi đây, các ngươi muốn trả thù cũng chẳng có ích gì. Chi bằng các ngươi nên yên lặng cho vong linh bình tĩnh để nghe tôi niệm Phật, các ngươi cũng niệm Phật sẽ đặng tiến hóa làm người, chớ như vầy tôi thấy khổ sở quá". Kêu đôi ba lần các con thú nghe lời tôi, chúng nó bỏ lên bờ, vong hồn nào còn bình tĩnh niệm Phật cũng được lên bờ, nhìn họ giống như là ngủ gục.
    Xong rồi tôi liền qua bên này có một ngục rất lớn tối đen thăm thẳm, chúng sanh trong đó đông thật là đông tiếng kêu gào lạc giọng khào khào ve ve, rần rần vậy, nói chuyện không nghe được. Không biết làm sao tôi bèn cất tiếng niệm:
    Nam mô A Di Đà Phật
    Nam mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát
    Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
    Địa ngục liền sáng ra, họ thấy tôi. Họ vừa thấy tôi họ ngoắt, tôi ngoắt họ và kêu: "Lại đây! Lại đây!". Khi đó họ lóng nhóng ló đầu ra, tôi liền bảo họ niệm Phật: "Tôi niệm có 4 câu mà địa ngục được sáng, vậy quí vị phải ráng niệm Phật đi". Khi họ niệm Phật rần lên thì cửa ngục mở tung .
    Tôi lại sang địa ngục phía bên kia, đây cũng là một trong bao nhiêu ngục. Ngục này là núi đá nhiều cục. Mỗi cục một người nằm, đá lớn người lớn, đá nhỏ người nhỏ, trên thân có trâu đá chó đá, ngựa đá cày bừa, cấu thấy ghê tởm.
    Vì tội lỗi chúng sanh đây không kể hết được, nhiều ngục nhiều hình tôi chỉ kể sơ lược thôi. Ở nơi địa ngục này tội nhơn bị hành hình muôn lần sống, muôn lần chết không chút ngừng nghỉ gọi là ngục Vô Gián vì tội ác ngũ nghịch phải chịu quả báo như vậy.

    HỒN ĐI ĐẦU THAI LÀM THÚ
    Bấy giờ tôi cùng chư Thần trở về Thập Điện để xem vong linh đi đầu thai làm thú trả nghiệp. Tôi thấy rất đau lòng, một số người đông lắm đều phải sanh làm thú. Số giết trâu, giết bò, giết ngựa, giết chó, giết dê, giết heo, rắn, gà vịt v.v... mỗi số đứng riêng một nhóm có hàng. Khi cho đi đầu thai quỉ sứ dẫn hồn ra sông Ứ Nê nơi dòng nước đỏ, đến đó quỉ sứ múc nước đỏ cho vong linh uống , đương là người mà uống nước rồi thì hoá thành thú. Kẻ hóa trâu bò, người hóa ngựa, heo, dê, rắn, gà, vịt v.v... Những vong linh chưa uống họ sợ quá bịt mắt lại không dám ngó thật là thảm thiết, quỉ sứ kéo trì, họ vừa khóc vừa uốn để phải chịu mọc lông, mọc sừng v.v...
    Khi các vong linh hóa thú hết rồi, một số quỉ sứ rất đông cầm một cây như cây cọ chấm vào lưỡi những con vật làm cho nó không biết nói. Quỉ sứ thâu các hồn nhỏ lại để bỏ vào hồ lô đem đi đầu thai. Khi đó tôi làm liều đến trước Thập Điện mà xin tha cho họ. Thập Điện nói: "Vì nghiệp lực của chúng quá nặng nề nên phải chịu đầu thai đền mạng. Nhiều đời nhiều kiếp sát hại sanh mạng nhiều không kể, thậm chí cho đến vật không ăn được chúng nó cũng giết rồi bỏ đi. Tội ác tày trời nên chúng nó phải đền mạng không làm sao được, không ai xin hay thay thế được, dầu có cha con đi nữa thì cũng tội ai nấy chịu đành như vậy". Đến đó tôi bèn từ giă Thập Điện trở về Nhất Điện.

    TRỞ VỀ CÕI DIÊM PHÙ ĐỀ
    Về Nhứt Điện tôi đến lễ đức Địa Tạng và Đức Quan Âm, Ngài nói: "Ngày nay ngươi khám phá Địa ngục xong hăy về nói cho người đời nghe lại và phải cố gắng in kinh ấn tống ta hỗ trợ cho . Ngươi có tâm độ Người địa ngục, nhưng chưa bằng độ chúng sanh ở cơi Diêm Phù, vì cõi đó chúng sanh còn tạo tội thì địa ngục không ngày nào hết . Hôm nay ta trợ duyên cho ngươi ba chung nước để ngươi định tâm nhớ việc địa ngục mà nói cho chúng sanh nghe lo đi tu hành, quy y, giữ giới ăn chay, cữ sát sanh thì không còn sa địa ngục nữạ Trong kiếp này ngươi vì trả nghiệp nên kinh luật chẳng thông, bởi vậy không được làm thầy ai hết. Sau này ngươi cũng mở đạo, nhưng đạo của ngươi chỉ dụng pháp "Phá Địa Ngục". Hiện nay nhơn duyên của ngươi phải theo giáo pháp Đại Thừa dùng phương tiện hoá độ chúng sanh và khuyên người đời chớ lầm mê đốt đồ mă để cầu siêu vô ích . Khuyên người đời hăy nên tụng kinh niệm Phật, cữ sát sanh và in kinh ấn tống như vậy rất dễ tiêu nghiệp chướng, sớm được giải thoát.


    GẶP THẦY TIỀN KIẾP
    Bồ Tát nói tiếp: "Ngươi có biết sư trưởng Minh Ngọc không ? Sư trưởng Minh Ngọc là thầy của ngươi ở kiếp tu hành thứ ba , nay đang giáo hóa Ni chúng, vậy ngươi nên tìm đến thọ giáo để hành đạo". Tôi nói: "Bạch Đức Bồ Tát, con nguyện vâng lời, dầu cho khổ sở hay trải qua muôn vàn kiếp con cũng không chán nản, con nguyện làm sao cho chúng sanh sớm tỉnh ngộ quay về Phật Pháp là con vui lòng". Bồ TáT nói: "Lời nguyện của ngươi sẽ thành và sau này sẽ chứng quả". Tôi liền lễ đức Bồ Tát Quan Âm và Bồ Tát Địa Tạng xong rồi đến từ giă Nhứt Điện Tần Quảng Vương để trở về cơi thế. Ngài cũng khuyên tôi về rán độ chúng sanh tu hành theo Phật .

    QUA CẢNH LONG VƯƠNG
    Tôi cùng chư Thần qua cảnh Long Vương để tạ ơn Ngài ba phen cho rồng đưa rước, khi vào đến đền Long Vương cung điện nguy nga cảnh trí tốt đẹp xinh tươi, muôn vàn rực rỡ hơn cảnh địa ngục xa lắm. Đức Long Vương từ trên ngai vàng bước xuống đón chàọ Ngài nói: "Hiền Tăng nay trở lại cơi Diêm Phù xin cũng vì Trẫm mà độ cho công chúa con của Trẫm đang bị đọa ở cõi Diêm Phù tu hành theo Phật. Hiền Tăng muốn cần bao nhiêu Long Thần hộ trợ Trẫm sẽ giúp cho". Tôi nói: "Bạch Ngài việc độ công chúa tu hành tôi xin lănh, còn việc xin Long Thần hộ trợ xin Ngài cũng hoan hỉ tôi không dám ước mong". Kế đó tôi cùng chư Thần tạ ơn Long Vương đă ba phen cho rồng đưa rước, và kiếu từ Ngài để trở về cơi thế. Đức Long Vương cùng bá quan tiễn đưa ra tận bờ biển rồi Ngài cho Thần Rồng đưa chư Thần cùng tôi qua biển lạnh. Khi tới ranh giới loài người, sau khi cảm tạ Thần Rồng chư Thần đưa tôi về nhập xác như kỳ trước, lúc ấy đúng 12 giờ ngày 13 tháng 10 năm Dần.
    Thời gian tôi quên đi việc sư trưởng Minh Ngọc vì cứ măi lo nói chuyện về địa ngục cho đến khi có một vị Thánh Nữ mách bảo trên Quan Âm tu viện không yên và thiếu hụt. Nhớ lại lời Bồ Tát nói tôi liền tìm thầy tiền kiếp là sư trưởng Minh Ngọc thọ giáo, rồi từ đó lo hiệp sức với thầy hoằng dương Phật Pháp.
    Tôi cũng khuyên nhiều chị em in kinh ấn tống, nhờ sự gia hộ của Bồ Tát nên được nhiều vị hảo tâm đă và đang giúp đỡ tôi làm tròn sứ mạng lớn lao ấy.
    Trước khi dứt lời, tôi xin đem phước làm nầy cầu nguyện cho tất cả pháp giới chúng sanh chóng quay về bờ giác.
    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

    (hết)

    Nguyện vạn sự cát tường (u)
     
    minhkhailoan, EnCondebui thích.
  17. debui

    debui Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    29/5/2007
    Bài viết:
    1,029
    Đã được thích:
    184
    Điểm thành tích:
    103
    em có chuệyn này cũng hay , post cả nhà cùng xem
    Cọng rơm quý giá
    Có một chàng thanh niên từ lúc nhỏ đã mang mộng ước sau này sẽ trở thành triệu phú, khi lớn lên anh đi chu du mọi miền, thăm hỏi nhiều người ở đủ mọi ngành nghề để tìm học cho được bí quyết làm giàu. Anh đã đi qua nhiều thành phố, thế nhưng mỗi người lại chỉ cho anh một kiểu cách khác nhau, đôi khi những phương thức này còn mâu thuẫn khiến anh không học hỏi được những bí quyết của họ. Nhiều năm trôi qua, không những anh không kiếm được tiền, mà của cải mang theo đi đường càng lúc càng vơi dần, cho đến một hôm nọ thì túi anh không còn một đồng ten, anh phải lang thang đầu đường xó chợ. Một hôm, khi đi ngang qua một thiền viện thờ phụng đấng Quán Thế Âm, anh ta được mọi người cho biết là đấng Cứu Khổ Cứu Nạn Ðại Từ Ðại Bi là một vị Bồ Tát luôn giúp kẻ khốn cùng. Chàng thanh niên đứng trước Phật đài khấn nguyện, anh thành tâm cầu xin đức Quán Thế Âm giúp cho anh tìm được phương thức làm giàu, vì đó là mộng ước duy nhất tr ong đời của anh. Trước lời khấn nguyện chân thành này, Quán Thế Âm đã động lòng nên hiển linh chỉ bảo cho anh ta: "Muốn giàu có thật ra không phải là một điều khó khăn, từ thiền viện này bước ra, bất kỳ gặp được vật gì đáng giá hoặc vô giá trị con cũng đừng bao giờ bỏ phí. Bất kỳ gặp được người nào từ già đến trẻ, con cũng phải luôn luôn nghĩ đến họ và giúp đỡ họ tận tình. Nếu làm được như vậy thì mộng ước của con sẽ thực hiện được dễ dàng. Không riêng chỉ một mình con, tất cả mọi người trên đời nếu làm được như vậy cũng sẽ trở thành giàu có ngay."

    Chàng thanh niên nghe lời của Quán Thế Âm dạy như vậy thì mừng rỡ vô cùng. Chiếu theo lời của ngài dạy bảo thì phương thức làm giàu này đâu có gì khó khăn. Anh chàng lạy tạ tượng Bồ Tát và hăm hở bước ra. Tr ong lúc hấp tấp anh ta vấp phải bực thềm té nhào đầu. Lồm cồm bò dậy, tay lại vớ nhầm một cọng rơm dưới đất, anh định vứt bỏ đi, thế nhưng chợt nhớ lại lời Bồ Tát dặn cho nên anh cẩn thận nắm cọng rơm tr ong tay rồi tiếp tục ra đi. Một lúc sau, có một con ong bay ngang vướng vào cọng rơm của anh đang cầm. Nghe con ong reo vo ve cũng vui tai, nên anh cứ để yên mà không chịu gỡ ra. Ði đến một ngã ba đường, anh trông thấy một người phụ nữ cố gắng dỗ dành một đứa bé đang khóc thét trên tay của bà. Chàng thanh niên bước tới quơ cọng rơm qua lại trước mặt đứa bé để tạo sự chú ý. Ðứa bé thấy có con ong vướng trên cọng rơm kêu vo ve nên hiếu kỳ nhìn vào đó mà ngưng khóc. Nhớ lời của Quán thế Âm Bồ Tát dặn, người thanh niên tặng cọng rơm có mang con ong trên đó cho đứa bé. Ðứa bé khoái trá nhe răng cười toe toét. Người đàn bà là mẹ đứa bé lúc nãy đã tìm đủ cách mà không làm cho đứa bé ngưng khóc được, bà ta mừng rỡ vì chàng thanh niên đã giúp bà tránh được khá nhiều phiền phức nên mở chiếc giỏ đi chợ lôi ra ba trái quít chín đỏ tặng cho anh ta để thay thế lời cảm ơn.

    Tiếp tục lên đường, đi được một đỗi, chàng thanh niên thấy một người buôn vải đang ngồi thở dốc bên đường. Ðó là một chàng lái buôn vì khát nước nên mệt lả người. Ðộng lòng trắc ẩn, chàng thanh niên tặng cho ông ta ba trái quít mà anh đang cầm trên tay. Cảm động trước tấm lòng tốt này, người lái buôn sau khi lấy lại sức đã mang tặng cho anh một xấp vải rất đẹp để đổi lấy ba trái quít của anh.

    Cầm lấy xấp vải, chàng thanh niên cảm thấy vui vui vì đã làm được vài điều tốt mà lại được người ta đền bù xứng đáng. Ði thêm một đỗi anh ta thấy có một con ngựa bị đau nằm lăn dưới đất, người chủ cỡi con ngựa đứng bên cạnh đang rầu rĩ không biết phải làm sao? Chàng thanh niên thấy con ngựa gầy gò tội nghiệp cho nên mới đề nghị với người chủ đổi con ngựa lấy xấp vải trên tay của anh. Hơi lưỡng lự một chút, người chủ con ngựa bằng lòng vì thấy rằng con vật có vẻ như không thể nào đứng dậy được nữa. Chàng thanh niên chạy đến bờ sông mượn chiếc thùng múc nước về đổ cho ngựa uống. Anh vuốt ve con vật tỏ vẻ thương yêu, không ngờ vài phút sau đó thì con ngựa đứng dậy được. Thì ra con vật chỉ vì khát nước và mệt lả người cho nên mất sức chứ chẳng bệnh hoạn gì cả. Khi con ngựa đã hoàn toàn bình phục, anh ta cỡi con ngựa tiếp tục lên đường.

    Ði đến trước một tòa nhà kia thì có một ông già tr ong nhà chạy ra chận anh lại và năn nỉ mượn đỡ con ngựa. Ông ta cho biết có việc cần kíp cần phải đi xa. Nhớ lời Quán Thế Âm Bồ Tát căn dặn, anh ta vui vẻ nhận lời. Ông già cho biết ông là chủ nhân của căn nhà, ông đề nghị với chàng thanh niên là hãy ở tạm lại căn nhà cho đến khi nào trở về thì ông sẽ trả ơn. Tr ong trường hợp ông không trở lại thì anh ta sẽ làm chủ căn nhà và luôn cả đất đai rộng lớn c hung quanh. Không đợi chàng thanh niên trả lời, ông ta nhảy tót lên lưng ngựa dông tuốt.

    Chàng thanh niên đành phải ở lại trông nom căn nhà. Căn nhà này có đầy đủ tiện nghi, lương thực, tiền bạc nhưng lại không có người vì ông già vừa rời khỏi là người giữ hương hỏa cuối cùng. Ðợi hết ngày này qua tháng nọ vẫn không thấy ông già trở lại, chàng thanh niên "bất đắt dĩ" trở thành chủ nhân căn nhà và đất đai rộng lớn c hung quanh. Trải qua nhiều năm anh ta sống một cuộc đời thật đầy đủ về vật chất, lúc đó anh ta mới sực nhớ lại lời dạy của Quán Thế Âm Bồ Tát. Thì ra người đã chỉ đường cho anh trở thành triệu phú nhờ vào lòng thương người, sự quan tâm, tánh bao dung và chỉ đơn giản có vậy mà thôi.

    Trên đây là một câu chuyện ngụ ngôn nhà Phật của xứ Nhật Bản. Ngụ ý của câu chuyện này nói lên rằng đa số con người sống tr ong cõi đời ai ai cũng muốn mưu cầu cho mình một cuộc sống thật đầy đủ. Những người đã giàu sang thì lại muốn tinh thần và sức khỏe của họ cũng được dồi dào. Thế nhưng rất khó mà định nghĩa được thế nào là giàu cho đủ với lòng m ong ước của con người. Theo định nghĩa của nhà Phật, giàu có không thể đo lường bằng số lượng ít nhiều của tiền bạc, mà là căn cứ vào sự rộng rãi, từ tâm bố thí của bạn. Những người có thể cho đi những gì họ có tr ong người mới có thể gọi là giàu. Những người lúc nào cũng khư khư giữ lấy cho riêng mình thì dù tiền bạc của họ có chất đầy kho đi nữa thì cũng chỉ được xem là người rất nghèo nàn về mặt từ tâm mà thôi.

    Vì vậy con đường chân chính để chỉ dẫn bạn tìm đến sự sung túc không phải để tìm nhiều của cải vật chất, không phải để tìm sự thành công trên danh lợi, mà là quí trọng mỗi một món đồ vật trên tay của bạn, quan tâm đến từng người mà bạn gặp gỡ, lúc nào cũng có thể giúp đỡ cho kẻ khác, bố thí cho kẻ khác.

    Thế nào mới gọi là một con người có lòng dạ bố thí? Ðó là một con người biết tạo duyên, tạo phúc, giúp đỡ những người khốn cùng, dù là với người chỉ lần đầu gặp gỡ. Ðó mới chính là sự bố thí cao cả, cho ra mà không bao giờ tiếc rẻ, nên nhớ một điều, cho mà còn tiếc, chứng tỏ rằng bạn chưa phải là một người rộng lượng, giàu có lòng nhân.

    Người Trung Hoa có một câu ngụ ngôn "Một cọng cỏ, một giọt sương", nghĩa là mỗi một con người sinh ra đều có những phúc phần khác nhau, cọng cỏ nhỏ thì nhận được giọt sương nhỏ, lá cây lớn thì nhận được giọt sương to, dù có miễn cưỡng cũng không được. Họ còn có một câu nói là "Cọng rơm có thể làm té con ngựa", hay nói ngược lại, biết đâu ta chẳng thành công chỉ vì một cọng rơm nhỏ bé. (Như chàng thanh niên tr ong câu chuyện này).

    Bí quyết để làm giàu chẳng qua là biết tạo duyên, tạo phúc và bố thí. Tạo duyên, tạo phúc khiến cho chúng ta cảm thấy lòng dạ được quang minh lỗi lạc. Bố thí khiến bạn thực sự trở thành một người giàu có, sự giàu có tinh thần mà không một triệu phú nào trên thế gian này có thể so sánh được.

    Gieo mầm dấu chấm

    Tr ong lớp học, cô giảng bài, bảo cả lớp yên lặng, ta vẫn quay sang nói nhỏ với đứa bạn ngồi cùng bàn.
    Vì ta nghĩ chỉ có một mình mình nói thì sao mà lớp ồn được. Rồi nhiều bạn tr ong lớp cũng nghĩ như ta, vẫn cứ nói nhỏ với những đứa ngồi gần bên. Thế rồi chỉ một lúc sau, những tiếng khúc khích nho nhỏ tạo thành một tiếng ồn lớn tr ong lớp.

    Đi dưới sân trường, ăn x ong một bịch bánh tráng, ta vứt bao xuống ngay tại sân, vì ta nghĩ, chỉ một bao rác nhỏ đâu nhằm nhò gì với sân trường rộng lớn này. Rồi khi xếp hàng lên lớp, đứng trên hành lang nhìn xuống, ta mới thấy sân trường mình… đầy rác.

    Miền Trung bị lũ lụt, cô bảo cả lớp quyên góp để ủng hộ. Mỗi bạn chỉ góp chừng 1, 2 ngàn- một số tiền quá ít. Nhưng khi thầy hiệu trưởng tổng kết số tiền cả trường ủng hộ thì lại lên đến hàng triệu. Một bàn tay không thể vực dậy số phận của nhiều người, nhưng rất nhiều bàn tay c hung một tấm lòng thì hoàn toàn có thể được.

    Bạn đã nghe câu chuyện của chàng sinh viên người Anh - Alex Tew - với ý tưởng kinh doanh táo bạo của mình chưa? Anh ta chia trang chủ website cá nhân của mình http://www.milliondollarhomepage.com (The Million Dollar Homepage - Own a piece of internet history!) thành một triệu điểm ảnh, và rao bán mỗi điểm ảnh ấy với giá 1USD cho khách hàng nào muốn đặt logo quảng cáo lên đó. Hiệu quả ngoài sức tưởng tượng, chỉ sau một thời gian ngắn, số điểm ảnh trên đã được bán hết, và chàng sinh viên trở thành triệu phú ở tuổi 21!

    Những cái chấm nhỏ tr ong xã hội mà ta cứ tưởng không ảnh hưởng đến sự vận động phát triển của thế giới, nhưng thực chất là có đấy!

    Một người nói không thể làm cả lớp mất trật tự, nhưng rất nhiều người cùng nói như thế thì sẽ được. Một miếng rác nho nhỏ vứt xuống đường cứ tưởng như không làm mất vệ sinh cho lắm, rồi nhiều miếng rác cứ như thế vứt xuống, đường phố chúng ta sẽ ra sao? Một dấu chấm nhỏ thì sẽ là một dấu chấm nhỏ, nhưng nhiều dấu chấm nhỏ thì sẽ tạo thành một dấu chấm lớn hơn.

    Cái dấu chấm lớn ấy sẽ tốt hay xấu, có hại hay có ích, tuỳ thuộc vào hành động của những dấu chấm nhỏ.

    Ta hãy chia một năm của mình thành 365 cái chấm, mỗi chấm ấy tương đương với một việc có ích. Mỗi ngày, ít nhất 1 việc thôi, cuối năm nhìn lại, gia sản của chúng ta đã là bao nhiêu việc tốt? Và những việc tốt trên đời thì không bao giờ nằm im, mà chúng sẽ nảy mầm. Mỗi người tr ong số chúng ta sẽ lại là một dấu chấm đẹp đẽ tr ong bức tranh tổng thể cuộc đời.

    Mùa xuân, mùa của vạn vật nảy mầm. Bạn ơi, ngay từ sớm hôm nay, ta hãy gieo xuống mảnh đất này một cái chấm tươi đẹp nhé!
     
    hanoixuanEnCon thích.
  18. gaume2009

    gaume2009 Thành viên chính thức

    Tham gia:
    22/3/2009
    Bài viết:
    138
    Đã được thích:
    15
    Điểm thành tích:
    18
    mama hay đi chùa nên mình được nghe nhiều chuyện phật giáo lắm, phật tổ là một trong những người có trí tuệ kiệt suất, mình tin là có một thế giới tâm linh!
    10 điều răn của Phật


    1. KẺ THÙ lớn nhất của đời người là CHÍNH MÌNH.

    2. NGU DỐT lớn nhất của đời người là TỰ ĐẠI .

    3. BI AI lớn nhất của đời người là GHEN TỴ .

    4. SAI LẦM lớn nhất của đời người là TỰ ĐÁNH MẤT MÌNH.

    5. TỘI LỖI lớn nhất của đời ngừơi là TỰ LỪA DỐI MÌNH.

    6. ĐÁNG THƯƠNG lớn nhất của đời người là TỰ TI.

    7. ĐÁNG KHÂM PHỤC lớn nhất của đời người là ĐỨNG DẬY SAU KHI NGÃ.

    8.TÀI SẢN lớn nhất của đời người là SỨC KHỎE.

    9. MÓN NỢ lớn nhất của đời người là NỢ TÌNH CẢM.

    10. KHIẾM KHUYẾT lớn nhất của đời người là KÉM HIỂU BIẾT.
     
    Sửa lần cuối: 25/6/2009
  19. Thieuphubuon

    Thieuphubuon Thành viên mới

    Tham gia:
    13/6/2009
    Bài viết:
    44
    Đã được thích:
    25
    Điểm thành tích:
    18
    "Năm năm tu ở tại gia
    Muốn thành Chính Quả thì ra "Tu đời"
    Ba mươi năm "Tu kiếp người"
    Muốn thành Chính Quả ta thời "Tu Am"

    Đó là con đường mà mình đã định sẵn (Cách đây 2 năm)... Giờ mình đang cố gắng, cố gắng để trọn vẹn với 30 năm tới đây. Chỉ mong thời gian tới, mọi việc ổn thỏa, mình có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu về Phật giáo.

    "Muốn đến với Phật thì phải tĩnh tâm và muốn tĩnh tâm thì đến với Phật!"​
     
  20. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Cảm ơn chị hanoixuan,debui và gaume2009 đã đóng góp bài vở thêm,mong nhận thêm được nhiều sự đóng góp nữa !nam mô a di đà Phật! Chị hanoixuan cho em hỏi là theo như trong truyện thì có chi tiết dặn con người ko nên đót tiền vàng,vậy,phong tục đốt vàng mã của ta thì làm thế nào cho đúng ạ?
     

Chia sẻ trang này